“Tiểu sử Nguyễn Thái Học” của Nhượng Tống
(nguồn)
(nguồn)
Anh bị giam hơn ba tháng trời. Chiều ngày 16 tháng 6, Anh và các đồng chí trong số án chém, tất cả 13 người bị giải đi Yên Báy. Từ trong buồng giam kín bước ra qua trại giam ngoài, Anh chào anh em nghỉ lại. Anh vừa đi vừa nói:
- Chúng tôi chắc đi chết đây! Các anh sống lại, cứ công nào việc ấy nhé! Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu! Hoa tự do phải tưới bằng máu! Tổ quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều nữa! Nhiều nữa! Rồi thế nào cách mệnh cũng có ngày thành công!
Anh em chào tiễn các anh. Và buổi sáng hôm sau, suốt cả Hỏa Lò, thường phạm cũng như quốc sự phạm đều bỏ cơm không ăn, để tỏ tình liên lạc. Anh và 12 đồng chí với đội lính Khố Xanh, đi chuyến tàu đêm lên Yên Báy. Theo sau là bọn mật thám và hai cố đạo. Trên tàu, các anh vẫn cùng nhau nói chuyện phiếm. Anh Chính cười:
- Đến Yên Báy, chúng ta sẽ được đón tiếp long trọng lắm! Thế nào bốn anh Thinh, Hoàng, Thuần, Thuyết chẳng đứng chực sẵn chúng ta ở sân ga! (Bốn anh này đã bị chúng giết ở Yên Báy cũng một ngày trước các anh).
Anh Học thì cãi lý với Cố Ân:
- Việc gì chúng tôi phải ăn năn? Chúng tôi chỉ là kẻ thất bại, chứ đâu phải là kẻ có tội! Rồi Anh đọc mấy câu thơ tiếng Pháp, dịch nghĩa là:
“Chết vì Tổ Quốc, Cái chết vinh quang! Lòng ta sung sướng! Trí ta nhẹ nhàng!…”
Khi đến Yên Báy, chúng giam các anh vào nhà pha. Rồi bắt đầu từ 5 giờ rưỡi sáng hôm 17 tháng 6, các anh đã lần lượt bước lên đài vinh dự. Đó là một khoảng đất ở gần trại Khố Xanh, chung quanh có lính ta, lính Lê Dương vác súng đứng vòng tròn. Các anh, từng người một, do lính Lê Dương dẫn từ trong ngục thất Yên Báy bước ra.
Trước khi ra, chúng đưa rượu cho Anh uống. Nhưng Anh từ chối, chỉ đòi hút điếu thuốc lào.
Người chết trước nhất là Nguyễn Như Liên, đến người thứ mười một là Nguyễn Văn Chuân, chỉ hô được hai tiếng “Việt Nam…” thì tên lính Lê Dương đứng cạnh đã bịt mồm không hô ra tiếng nữa!
Anh Phó Đức Chính thứ mười hai, đòi đặt anh nằm ngữa để xem lưỡi máy chém nó xuống như thế nào! Anh hô được đủ bốn tiếng “Việt Nam vạn tuế!”
Anh Học lên cuối cùng, tỏ ra vẻ cực kỳ bình thản. Anh mỉm miệng cười, đưa mắt nhìn công chúng, nhìn quân lính, nhìn máy chém, rồi cất giọng đỉnh đạc, trầm hùng mà hô thật lớn bốn tiếng “Việt Nam vạn tuế!”… Nhưng không biết trong khi nhìn quanh ấy, tia mắt Anh có gặp tia mắt một người… không?
***
Đảng ca (VNQDĐ): Việt Nam Minh Châu Trời Đông (1944 – Hùng Lân)
--------------------------------------------------------
(Bài và hình của anh Đinh Thanh Nguyện)
Hôm nay tự nhiên sực nhớ sắp đến ngày kỷ niệm các anh hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng bước lên máy chém sáng sớm ngày 17/6/1930. “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang”, “Không thành công cũng thành nhân”, “Việt Nam vạn tuế”.
Gửi Phay Van mấy tấm hình TN chụp hôm đầu năm trên đường từ Sapa về ghé thắp hương cho các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, một buổi chiều tà tháng 3. Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái ngày nay, nơi 17 liệt sĩ an nghỉ là nơi các anh lần lượt ngã xuống, cỏ vẫn xanh. Khối đá hình thang đơn giản là phần mộ. Vành khuyên chưa trọn tượng trưng công việc các anh còn dở dang. Bài thơ của thi sĩ Pháp Louis Aragon: “Yên Bái, đây là điều nhắc nhở ta rằng không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét