Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

CHƯƠNG VI_LỬA DẬY TRỜI XUÂN

CHƯƠNG VI

Thấm thoát mà Xuân về, Tết đến. Thật đúng như câu người ta thường nói : “Tết đến bên lưng, con trẻ thì mừng, cha mẹ thì lo” Hoà và Bé hí hửng ra mặt, Mai cũng tươi tỉnh hơn lên. Chỉ mình mẹ là cuống quít mỗi khi nhìn tờ lịch. Công việc làm ăn buôn bán dường như khó khăn ra. Người bán quá nhiều, người mua thì lại ít. Các gian hàng đua nhau chưng bày bánh, mứt, kẹo, đồ hộp, thức ăn khô. Trái cây từ các tỉnh đổ xô về, từ ngoại quốc tràn ngập đến. Từ đầu tháng 11 ta, Mẹ Hoà bảo Mai nghỉ việc hiệu may ở nhà làm bánh mứt với mẹ. Ngoài chuyện làm bán kiếm lời, mẹ còn có dụng ý cho con gái tập tành chút đỉnh việc nữ công. Hồi trước mẹ học đủ thứ, học ở bà, ở các bà cô, bà dì, bà bác… Còn Mai bây giờ không học được ở đâu cả, bác, cô, dì, mợ hoặc vì biến cố của đất nước trôi giạt mỗi người tận một nơi xa tắp, hoặc biệt tích đâu rồi, hoặc hàng đôi ba tháng mới có một lá thư ngắn cho biết gia cảnh thế nào, chớ không hề được gặp. Mai lại phải từ giã nhà trường quá sớm, vào lúc trong lớp Mai chưa có nổi một cô giáo dạy nữ công.

Ở nhà thì bận rộn nhiều việc, chưa kể việc học may, nên mẹ ao ước có dịp truyền lại cho con gái những cái khéo léo của mình ngày trước. Thật là nhất cử lưỡng tiện, không có dịp nào hơn. Nhà đâu có nhàn rỗi, dư dật như người ta mà bày biện làm trong ngày thường để ăn và cho con gái học ?

Hoà và Bé vui thích quá : món gì hai anh em nó cũng được nếm qua loa, nhụy bánh in, rẻo bánh kẹp, nước đường dư v.v… mứt thơm hả ? Hai đứa được hưởng cái cùi, mứt kim quất ư ? Hai đứa được ăn mấy trái bể. Quả mứt chanh này sao có vẻ không xanh mấy ? Thôi cho tụi nó quách cho xong, cái hoa đu đủ này bị gãy một cánh, còn giữ làm chi ? Lại tặng cho hai đứa…

Suốt ngày, Mai không rời được cái bếp, hai má cô lúc nào cũng hồng hồng, trán lúc nào cũng dâm dấp mồ hôi, tay luôn luôn cầm cái quạt, hay cái dao, nếu không là đôi đũa.

Bé a đại vào mình chị, hít lấy hít để và phát giác với anh hoà :

- Chị Mai thơm quá, anh Hoà ơi ! Thơm mùi mứt…

Hai đứa cũng lămg xăng dữ lắm, sẵn sàng giúp đỡ, hợp tác với chị Mai lắm, song chúng vụng về, đụng đâu hỏng đó, hư đó, nên bị mẹ đuổi quầy quậy. Hoà chỉ đắc lực có mỗi chuyện rửa bát. Mai mà nhờ cậu em trai quạt hộ lò lửa thì khi lò lửa đỏ lên , soong nước đường cũng đầy những tro than. Mượn canh chừng thau mứt cỡ 10 phút thì khi nhìn vô thau : mứt cháy ! Coi hộ nồi cơm thì vừa sống vùa khê, kho nồi cá một bữa thì mặn đắng, nuốt không trôi khỏi cổ.

- Con trai hư ! Không làm gì nên thân hết !

Mẹ quát, đuổi Hoà lên. Nhưng chị Mai thì không. Chị nhìn Hoà bằng đôi mắt bao dung, âu yếm, khác xa dạo trước. Hoà đã cất giùm chị chướng ngại vật (viết thư cự tuyệt gởi anh Miên nên chỉ biết ơn chăng ? Hoà vẫn tự hỏi và dù không chắc mình đoán đúng hay sai, Hoà không cần thắc mắc chi, cứ an nhiên toạ hưởng sự yêu chìu của chị. Thỉnh thoảng, Hoà lại nhớ đến Tâm và chị Bạch Tuyết của bạn. Hoà mà có người chị như chị Bạch Tuyết thì Hoà mong ai đến rước cho mất đất không hề tiếc thương, ngăn cản chi cho nhọc xác. Mà hễ nhớ đến bạn, Hoà xúc động mãnh liệt, lòng yêu thương chị tràn trề, Hoà phải thể hiện lòng thương yêu đó bằng cách xáng lại bên chị, ôm ngang lưng chị, bá lên cổ, lên vai chị không kể lúc chị đang bận việc hay rảnh rang, mặt mũi chị sạch sẽ hay lấm lem tro than, dầu mỡ.

Hạnh phúc của Hoà ! Nó quả hao hụt đi khá nhiều sau cái chết của cha, nhưng mà Hoà vẫn còn… vẫn có chứ không hẳn là mất sạch, tiêu tan cả. Cha mình bây giờ… Hoà chỉ còn mang máng nhớ những chuyện xảy ra. Hoà đã chịu chấp nhận sự thật. Dù không một lần được gặp cha trong giấc mơ Hoà vẫn cố gắng học hành để cha được vui trong cõi chết như lời thầy dặn, và để mẹ bằng lòng.

Về phần mẹ Hoà, bà cũng như hầu hết các gia trưởng nghèo khác, còn hơn nữa, vì bà vừa làm mẹ, vừa thay chồng làm cả chức vụ người cha. Một mình thui thủi bà đã cố ngăn chặn nỗi buồn trong lòng bằng mọi cách.

Công việc bận rộn cũng khuây khoả đi nhiều. Bà rất mừng vì có nhiều việc để làm. Nhưng từ ngày 26 ta trở đi, bà buồn rũ. Bánh mứt đã xong, giao cho hiệu cả rồi. Bà bỗng mệt nhoài, chán nản hơn bao giờ cả. Mai dắt hai em đi chợ tết. Nhà vắng hoe. Một mình mình, bà thấy như nỗi buồn nở bung ra, vùng lên, nỗi buồn mà từ lâu lắm sau khi chồng nằm xuống bà đón nhận nó và hết sức thu gói lại. Bà chỉ còn có các con. Họ hàng, quê hương, làng mạc bây giờ đã xa lơ, xa lắc. Không biết đến bao giờ mới được gặp gỡ, được trở về. Chao ơi ! Sao mà lẻ loi, mà đơn độc thế ?

Người ta , ai cũng như đũa có đôi, còn bà thì…

Bà muốn khóc mà lạ quá, hình như nước mắt cạn khô rồi… Hay bởi lâu nay bà cứ cầm giữ nên thành thói quen, giờ không khóc được ?

Bà thu dọn bàn thờ chồng, lau quét sạch sẽ. Khói hương bay lung linh, toả ra mùi thơm quen thuộc. Bà nhìn lên di ảnh chồng : mắt sáng, trán cao, cằm vuông, mũi thẳng… toàn thể không có chút gì biểu hiệu đó là một người yểu mệnh. Thế mà…

Trong một giây, thốt nhiên bà thấy lao đao như muốn ngã, bà hoa mắt lên, có cái ảo giác người trong ảnh tiến lại gần bà, nắm lấy tay bà và cất giọng âu yếm , dịu dàng, nói lên cái câu ông từng nói một lần khi ngỏ ý muốn cưới bà :

- Tôi còn về đó làm chi nữa ? Đau lòng lắm ! Tôi sẽ lấy quê em làm quê tôi, cha em làm cha tôi. Chúng ta sẽ sống bên nhau, cùng chia sớt niềm vui, nỗi khổ…

“ Mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ ?” Bà nhắc lại, giọng xót xa, đau đớn. “Anh nói vậy, tôi còn nhớ đây mà anh đã vội bỏ tôi, đi… “ Tất cả sức mạnh của bà như tiêu tán mất trong giây phút, bà phải bíu chặt mép bàn thờ mới đứng vững.

Từng giọt, từng giọt nước mắt nóng trào ra, lăn dài xuống má và bà không ngăn chặn nữa. Có ai đâu, bà tha hồ khóc, khóc cho vơi, cho hả, khóc như đứa trẻ con, như chưa từng được khóc bao giờ.

Niềm thống khổ vơi đi, tan theo nước mắt. Vậy mà lâu nay bà cứ ngỡ mình cạn hết lệ rồi.

*

Thức ăn trong ba ngày Tết đã sửa soạn xong. Tuy là nói qua quít xong thôi nhưng nghĩ rằng trong một năm ròng chỉ có ngày này, nên mẹ Hoà lại cố sắm cho đầy đủ.

Những gia đình công chức, người ta nghỉ ngày chúa nhật, ngày lễ, còn mẹ con Mai thì làm việc tuốt tuột suốt tháng quanh năm. Mai lúc nào cũng kim với chỉ, mẹ lúc nào cũng có mặt ngoài chợ từ tinh mơ cho đến tắt mặt trời, bất chấp nắng hạ, mưa đông. Tay nghỉ thì miệng nghỉ cho nên không dám nghỉ. Có lẽ vì vậy mà cái Tết đối với dân nghèo và dân quê long trọng và có ý nghĩa khác thường, đặc biệt. Dân thành phố, nhất là dân giàu có họ cần gì ngày Tết ? Một năm họ hưởng biết mấy lần Xuân ? Họ có biết bao nhiêu là dịp ăn chơi phè phỡn ?

Hoà dạo phố với chị và em Bé, lòng bừng bừng vui sướng. Hoà chưa mặc áo mới, còn để dành. Mai cũng vậy. Chỉ mình em Bé nằng nằng mặc cho bằng được mới nghe. Nó xúng xính đi bên anh và chị, miệng nhồm nhoàm nhai kẹo, gặp ai cũng toét ra cười, thấy cái gì cũng hỏi. Hoà nói nhỏ với chị mai :

- Em thấy cái áo của Bé không được đẹp, hơi rộng…

- Phải, mà đừng nói to, nó nghe nó chê. Tại mẹ ưng vậy, mẹ nói em mau lớn.

- Bé ăn kem, Bé ăn kem ! Mua cho Bé đi, chị Mai !

Thình lình, Bé dừng lại, đòi. Hoà liếc qua cái bảng ghi giá tiền, gạt đi :

- Thôi ! Ăn bậy hoài, ăn đủ thứ, đau bụng giờ. Mẹ la…

- Mẹ không có la. Mẹ nói rồi, mẹ nói bữa nay Tết, cho em Bé ăn. Mua cho Bé, Bé không cần anh Hoà, chị Mai mua mà !

Mai vội bảo em :

- Thôi kệ, để chị mua cho em một cái, cả năm mới ăn một lần, Hoà ăn không ? Chị mua cho em luôn ?

- Em không thích… mắc lắm !

- Coi kìa, mình có ăn hoài đâu, chị mua cho em, nghe ?

- Mà chị có ăn không ? Chị có ăn em mới ăn.

- Được rồi, em cứ ăn trước đi.

Và không do dự nữa, Mai mua cho em hai hộp. Tuy là từ chối nhưng khi Mai mua xong thì Hoà ăn một cách ngon lành. Nó ưng làm người lớn nhưng nó vẫn còn là trẻ con.

Mai thì nghĩ : “Tội nghiệp hai em, kham khổ cả năm, ngày Tết phải cho tụi nó sướng một chút”.

Nhìn hai đứa, Mai chạnh nghĩ đến cha và lần thứ nhất cô gái hiểu một cách thấm thía lời cha ngày trước : “nhìn tụi nó ăn mình thấy ngon, thấy no luôn” Phải ! Bây giờ Mai cũng vậy, cô không ăn nhưng nhìn chúng ăn cô thấy ngon, thấy vui thích lắm. Cái cảm giác đó khi còn cha, không bao giờ Mai có cả.

Từ một cô gái ưa vòi vĩnh, hay làm dáng, thích bắt nạt em và mơ mộng – sơ sơ thôi – sau cái chết đột ngột, bất ngờ của cha, cô hoàn toàn đổi khác. Mai trở nên thực tế, chăm chỉ, biết lo xa. Cô bỏ hẳn thói quen vô trách nhiệm ngày trước. Cô hết dùng cái câu cửa miệng :

- Không biết, để mẹ về đã.

Hay :

- Mệt lắm, không phải chuyện tao đâu.

Khi cha còn sống, Mai được nuông chìu và bênh vực, cô không từng nếm được cái vui của sự hy sinh, sự quên mình, sự ban cho. Cô chỉ biết thụ hưởng, chỉ vui khi được nhận. Như một phép mầu kỳ diệu, bây giờ cô thay đổi hẳn tính tình, cô không hề đòi hỏi cho mình. Càng ngày, Mai càng tỏ ra gười lớn, muốn kê đôi vai nhỏ bé gánh bớt, chia sớt cái trách nhiệm nặng nhọc của mẹ cô, vì Mai biết đó là cách tốt nhất để mẹ nguôi bớt sầu buồn, để bù đắp vào sự mất mát quá lớn của gia đình mình. Nếu không, mẹ buồn rầu thái quá, mẹ sinh đau ốm rồi bà sẽ chết sớm, bỏ ba chị em lại côi cút trên đời, thì không biết xoay sở ra sao. Mai hãi quá, không dám nghĩ đến điều ghê gớm ấy.

Dần dần, mai tìm thấy niềm vui trong sự chia sớt trách nhiệm với mẹ. Ngay trong những lúc Hoà hay em Bé làm phiền cô, cô cũng thấy vui, thấy thích. Vì cô nghĩ rằng hai em dựa vào mình và mình đã trưởng thành, mình có cái bổn phận dắt dìu, che chở chúng, cưng chìu chúng để chúng quên đi điều bất hạnh.

Phải bù vào chỗ bất hạnh đó. hất hủi chúng chúng sẽ tủi thân. Cô như quên rằng mình cũng mất cha, mà chỉ nhớ rằng mẹ và em mình khổ sở vì cha chết, mình phải, bằng bất cứ giá nào lấp vào khoảng trống, bù vào sự thiếu thốn đó. Đôi khi, bị mẹ bẳn tính rầy oan, cô vẫn không oán hận.

Mai thương mẹ, thương em và tìm thấy nguồn vui, lẽ sống trong tình thương và bổn phận, không ao ước chi hơn.

Ba chị em đi ngang hàng hoa. Mai nghe lòng mình rung động nhẹ khi một mùi thơm thoang thoảng, mùi thơm đó làm cô nhớ tới mấy mùa xuân cũ, cha cô thường dắt chị em cô đi dạo hàng hoa.

Ông chịu khó làm theo ý con, mặc chúng đưa đến đâu cũng đi theo, có khi đứa đòi đến hàng này, đứa đòi đến hàng kia, ông giả vờ buồn rầu nói :

- Thôi các con hãy cắt ba ra làm ba khúc, mỗi đứa lôi một khúc theo cho tiện.

Lũ con cười vang lên, ông cũng cười theo. Chao ! Sao mà nhiều kỷ niệm về cha quá ! Những ngày đó còn đâu nữa ? Nó đã lùi vào dĩ vãng… cô gái thở dài.

- Chị Mai, mua hồng cho Bé đâu ?

- Thôi, Bé làm như con nhà giàu, cái gì cũng đòi. Hồng mắc lắm…

- Mắc gì ? Chị Mai hứa rồi, anh Hoà nhiều chuyện…

Tiếng hai em cãi cọ làm Mai vụt tỉnh. Cô ôn tồn :

- Được rồi, lát nữa chị mua hồng. Ba cũng ưa ăn hồng lắm. Mua cúng ba rồi cho Bé ăn luôn.

Nghe chị viện đến hai tiếng ba ưa Hoà thôi cằn nhằn em. Người ta không thể keo kiệt với người chết được, huống chi người chết đó lại là người cha yêu quí của mình.

*

Sáng mồng một mẹ và hai em đi chùa. Mai ở nhà trông nhà một mình. Ngồi yên, Mai đắm hồn trong vắng lặng, cô bỗng thấy ngôi nhà rộng mông mênh. Trên bàn thờ cha, dĩa hoa quả xanh tươi, vui mắt. Một làn khói nhẹ, thoang thoảng, mờ ảo toả ra từ bát hương, bao phủ trước di ảnh cha. Trong khoảnh khắc, cô gái thấy một cảm giác lạ, đó là cái cảm giác cha mình không xa cách chi, ông vẫn quanh quẩn đâu đây trong cõi vô hình, tuy mình không thấy. Phải ! Tuy hình hài ông đã tiêu tan cùng cát bụi, trở thành cát bụi, nhưng giới linh hồn nếu có, chắc ông cũng ở cạnh vợ con. Mai nhìn thẳng vào hình cha, nom linh động như khi ông còn sống. Mai nhớ lại cử chỉ, lời nói, thói quen của cha mình. Có người nào thương con hơn cha mình không ? Mình được sung sướng, được cưng chìu quá, cho nên trời bắt mình mất cha sớm để bù vào ? Cô mím môi trong một ý nghĩ thách thức, cam chịu : “Được rồi, dù trời có ác như thế đi nữa, ta cũng cam, vì ta đã sống trong những ngày đầy đủ, sung sướng bên cha. Bây giờ là lúc ta bắt chước như cha ta : thương yêu, săn sóc mẹ và hai em. Ta sẽ như cha… ta sẽ… Xin cha giúp con để con đủ sức làm cây cột cái, thay cha mà chống đỡ gió mưa cho mọi người nương tựa, kể từ đây”.

Mai chớp mau mắt, hai giọt nước mắt trào ra. Không phải là những giọt lệ đau đớn mà là những giọt nước mắt sung sướng, sung sướng vì mình có trách nhiệm, và biết vui vẻ đón nhận nó, mình đã khôn ra, đã lớn lên, sắp trưởng thành.

Chợt có tiếng gõ cửa. Mai lau vội mắt, đứng lên. Cô Thu, bạn Mai và em cô, bé Thủy bước lên hiên. Mai reo lên vui vẻ :

- Chà diện quá ! Đã đi đâu chưa ?

- Qua mừng tuổi bác với mày đây. Chưa đi đâu hết, đợi mày đi cho vui chớ.

- Tao đi không được, phải coi nhà, mẹ đi với hai đứa nhỏ rồi.

- Không gấp, tao đợi.

- Mà đi đâu chớ ?

- Đi xin xăm.

- Thôi, tao không đi đâu.

- Sao vậy ? Mấy năm…

- Mấy năm khác, năm nay khác…

- Khác cái gì ? Bộ giờ mày không cầu mong gì hết ? Không muốn biết…

- Phải đó ! Bây giờ tao không cầu mong gì, tao đâu có mua giấy số mà mong trúng ? Gia đình như vậy là tốt rồi. Số mạng mình ăn thua gì ở chuyện xin xăm. Ba tao nói vậy.

- Trời ơi ! Con nhỏ này bây giờ nói nghe lạ quá… mày có khùng không ? Nói nghe như đàn ông !

- Ừ ! Giống đàn ông, giống ba tao đó, sao không ?

Mai thao thao nói nhưng rồi đột nhiên cô dừng lại. Thu làm sao hiểu được lòng cô ? Mà Mai thì không biết diễn tả tâm trạng mình sao cho minh bạch được. Mai quay sang Thủy :

- Chị có giống đàn ông không ? Em Thủy nói coi ?

- Trời ơi ! Nhè con nít mà hỏi, nó biết gì ?

- Con nít chớ chưa chừng khôn hơn thứ lớn đầu như mày đó… to xác mà ngu…

- Ê, năm mới không được nói bậy nghe.

Hai cô gái cười vang lên. Chẳng có gì cũng làm họ vui được. Ngày năm mới có khác, họ có thể vui vì một câu vớ vẩn, vô nghĩa như vậy đó.

*

Sáng mồng hai, Mai sửa soạn bữa ăn sáng sớm hơn thường lệ, để kịp đi thăm mộ cha đỡ nắng. Bánh chưng, dưa món, thịt kho. Đó là những món đặc biệt của gia đình này trong ngày Tết. Ngày thường thì cơm nguội hay bánh mì đã là sang rồi.

Hoà cũng mặc áo quần mới. Sắp đi thăm mộ cha mà. Mẹ ngắm nghía các con, vui vẻ nói trong mâm ăn :

- Tụi bây lớn đại rồi đó !

Thình lình, Thu hớt hải chạy vào, cô chưa mặc áo dài làm Hoà hơi khó chịu : sáng sớm lại là ngày Tết mà tới nhà người ta… nhưng Hoà sững sờ khi nghe Thu nói :

- Bác hay gì chưa ? Đừng đi đâu sáng nay đó. Việt cộng tấn công… họ về nhiều…

Mẹ buông đũa, lắp bắp hỏi :

- Ai nói ? Thiệt không ?

Mai thì không tin :

- Thôi, nói bậy bạ hoài…

Thu trừng mắt :

- Không tin hả ? Mở radio nghe coi…

- Hoà, mở radio, con !

Hoà phóng ba bước lại đầu giường mẹ lấy radio vặn lên. Ba cái miệng cùng kêu :

- Đâu ? Có gì đâu ?

- Đợi chút coi, rồi có bây giờ đó mà. Nãy giờ cứ ít phút lại có… người ta dặn mình đừng ra ngoài, giới nghiêm cả ngày, không phải chơi đâu.

- Giới nghiêm ban ngày hả ?

- Chớ sao…

Thu ngừng lại vì từ trong radio có tiếng phát ra :

“Đồng bào vững lòng… triệt để tuân theo… “

Mọi người cùng im phăng phắc. Thu nói đúng. Mẹ thở dài. Mai tức tối :

- Cả năm có một ngày định đi thăm mộ cha mà không được, ức chưa ?

Trọn ngày mồng hai ai nấy cứ quanh quẩn trong nhà, dáng bộ vô cùng bực tức. Mẹ không ngớt thở ngắn, than dài :

- Trời ơi ! Đánh nhau trọn năm không chán sao mà còn đánh ngay trong ngày tết ?

Hoà và Bé thay nhau canh chừng cái radio. Mai tuy không nói gì, nhưng không khác chi mẹ và hai em. Cô cười gượng gạo, dỗ dành chúng :

- Thôi, mai đi cũng được, gấp gì…

Kỳ thật là cũng để an ủi chính mình.

Ngày mồng hai chậm chạp trôi qua trong sự buồn tẻ.

Sáng mồng ba, chưa kịp rửa mặt, mới mở mắt Hoà đã vặn đài, ngóng tin. Vẫn không có gì đáng mừng. Vẫn những lời lẽ y như hôm qua. Hoà phát khùng lên, Mai thì nóng ruột như bị lửa đốt. Tuy nhiên, cô vẫn cố giữ vẻ trầm tĩnh bề ngoài.

Bữa ăn sáng ngon lành, đặc biệt lại được dọn ra, nhưng một điều khác lạ : không ai chiếu cố đến, trừ em Bé. Mẹ nói :

- Tụi bây ở nhà, nghe ?

- Mẹ đi đâu ?

Các con cùng hỏi.

- Không đi đâu xa hết. Qua bên xóm một chút, cuồng cẳng không chịu nổi.

Cỡ chín giờ sáng mẹ hộc tốc chạy về vì tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ròn, liên tiếp, không biết chỗ nào song rất to, rất rõ. Và độ nửa giờ sau thì người ta dắt díu nhau, bồng bế, mang xách, lôi thôi, lếch thếch tuôn vào trong hẻm như giòng thác lũ. Mặt người nào cũng ghi đậm nỗi kinh hoàng, trẻ con khóc nheo nhéo, ngằn ngặt trong những cái bọc vải, có đứa khản đặc tiếng lại. Mấy đứa lớn bị lôi tuồn tuột không chút nương tay, trông cảnh tượng hết sức thương tâm.

Người ta mang theo tất cả cái gì mang theo được : quần áo, chăn màn, nồi niêu, và có lẽ đó là tất cả gia sản của người nghèo.

Trông thấy cảnh ấy, mẹ Hoà không nén được lo âu. Bà đi ra, đi vào, đi lên, đi xuống, cầm cái nọ, buông ra rồi cầm cái kia, nhưng bà không làm gì được. Bụng bảo dạ nên thu vén chút đỉnh ngộ phòng có chạy thì sẵn sàng, nhưng bà không làm được điều trí khôn giục mình làm.

Chạy đi đâu ? Tá túc chỗ nào ? Đâu là chỗ an toàn trong khi chiến tranh xảy ra ngay trong thành phố ? Ban nãy, nghe cháu bà Năm nói “họ” đóng quân trong một biệt thự bốn tầng lầu gần chợ Bến Thành, rất nhiều toán lẻ tẻ ở cầu Xa lộ, ngã Phú lâm, Chợ lớn cũng có họ. hai bên bắn nhau suốt mấy ngày nay mà mình không hay biết chi cả. Bởi trong đêm giao thừa thì pháo nổ ran, tiếng súng lẫn trong tiếng pháo, còn ngày mồng một, mồng hai thì ai cũng cho là trò đảo chính, đảo chiết chi đây, nên không ai lo sợ, chỉ sốt ruột thôi.

Cho đến bây giờ, trưa mồng ba, sự lo sợ đã hiển nhiên, thay thế cho sự bực mình. Không phải trò chơi, không phải đảo chính…

Hoà theo chị Thu về nhà chị ấy, trèo lên gác nhìn về phía Chợ lớn : từng cột khói đen nghịt một góc trời. Tiếng súng khi nhặt khi thưa không ngớt.

Chợ không họp ngày mồng bốn. Đêm nằm cứ giật mình thon thót, một tiếng động nhỏ cũng đủ gây nên sự kinh hoàng. Không khí đe doạ cứ bao trùm, lẩn quất đâu đây không chịu buông tha.

Mẹ thì thọt qua nhà bà Năm, nhà Cai Bình, nhà Bốn Thôi dò hỏi tình hình. Ai cũng nói là không phải chạy đi đâu cả. Hai bên đang đánh nhau ? Thì cứ đánh. Mình là dân lành, dốt nát, ai nỡ đánh giết mình ? Đánh cũng có chỗ chớ ! Chắc là một đòn chính trị chi đây ? Không ! Đừng tưởng đòn chính trị… chuyện này làm náo động cả thế giới mà ! Thôi, bàn lui bàn tới làm chi ? Ăn thua gì ở mình ? Ăn thua là ở Dinh Độc Lập, ở Toà Bạch Ốc, ở ngoài Bắc Việt ấy chứ, bàn tán làm gì ? Mẹ Hoà càng rối ruột thêm. Súng cứ nổ, người ta cứ bồng bế nhau, lếch thếch chạy vào hẻm. Người trong hẻm thì bàn tán nhốn nháo, xôn xao, khen chê, dò đoán lung tung, chẳng đâu đến đâu.

Những lúc như vậy mà nhà lại không có đàn ông, có khổ không ? Chẳng biết quyết định làm sao cả.

Đêm đến, nỗi lo ngại càng tăng. Mẹ cho Hoà với em Bé qua nhà Cai Bình coi ti vi. Ở nhà mãi buồn cũng tội, cho chúng đi coi đỡ buồn may ra lại có tin hay. Đài phát thanh thì chỉ ngần ấy chuyện : kêu gọi, hô hào đoàn kết, hy sinh, đừng tin theo giặc, kêu gọi hiến máu, kêu gọi công chức, quân nhân trở về đơn vị, nhiệm sở…

Cả nhà Cai Bình và Hoà, Bé đang mải mê theo dõi tuồng cải lương : “Kỳ nữ Mạnh Lệ Quân” thì thình lình có tiếng kêu gọi từ dưới đường vọng lên :

“Hỡi đồng bào thân mến ! Quân đội giải phóng đã làm chủ tình hình thủ đô. Yêu cầu đồng bào vững tâm tin tưởng… Ngày mai… “

Cai Bình hốt hoảng, tắt phụt ngọn đèn và cũng một lúc, ông tắt biến luôn cái ti vi. Lũ trẻ chưa kịp phản đối, ông đã hét lên nho nhỏ :

- Im hết, muốn chết không ? Hai đứa kia ! Cút mau ! Giờ này mà còn ngồi đây…

Rõ người lớn bất công, ban nãy chính ông ta mời mẹ con Hoà sang mà bây giờ lại cũng chính ông tống khứ hai đứa nhỏ trở về. Chẳng qua khi sợ, người lớn, người ta quên tuốt tuột những gì vừa mới nói… cách mươi phút trước.

Hoà riu ríu dắt em, băng ngã tắt về nhà, quên cả chào hỏi lễ phép như mọi bận. Tiếng kêu gọi dưới đường vẫn văng vẳng vọng lên nhưng càng phút càng xa dần. Bóng người lạ cũng mất hút sau giàn hoa giấy nhà ông Tiết. Không khí đột nhiên căng thẳng, tăng phần đe doạ hơn lên. Người ta sợ đến quên cả thở.

Đứa con út Cai Bình nhai vú mẹ chanh chách trong bóng tối. Cai Bình nhịn thở se sẽ theo hai đứa trẻ, đưa chúng về tận ngõ mới thôi, chừng như ông ta hối hận về thái độ của mình vừa rồi, không nỡ để chúng phải đi một mình.

*

Hai ngày sau đó, tình hình như lắng dịu, yên yên. Nhưng đến tối mồng sáu đột nhiên tiếng súng nhặt lại, và càng về khuya súng nổ càng dòn. Mẹ Hoà lôi tuột cả lũ xuống gầm giường cho chắc bụng. Cửa nẻo khoá kỹ. Bàn thờ cha không đốt hương cũng chẳng có đèn. Trong bóng tối, Mai nghe rõ từng nhịp thở của mẹ và hai em. Mắt thao láo, cô lắng nghe tiếng súng cứ liên tục nổ. Nhưng rồi mệt quá, mọi người thiếp dần, bởi thức mãi mấy đêm qua, ai cũng kiệt sức, không chống nổi với cơn buồn ngủ.

Tinh mơ, súng càng nổ dữ dội. Mai vội vàng nấu cơm để cho các em ăn.

Cơm chưa cạn thì lửa bốc rực trời khu xóm trong. Người ta ùa ra như kiến trong tổ bị động. Tiếng người gọi nhau ơi ới… Mẹ Hoà thu dọn vài bộ áo quần tôn tốt, đập tan con heo đất cất tận đáy rương, cho tất cả vô một cái va li nhỏ và giục các con : “Coi có gì tiện gọn lấy đi” Mai nhìn quanh ngơ ngẩn, thở dài :

- Con đâu có gì ? Chỉ có cái máy may…

- Máy may làm sao đem đi được, con này giỡn quá !

- Trời ơi ! Súng nổ như vậy mà còn ngồi đó, bộ ưng chết sao chớ ?

Cai Bình đi ngang, hét chõ vào nhà làm mẹ con Hoà càng cuống quít. Khi bốn mẹ con ra đến hiên thì súng nổ càng sát sạt hơn. Đoàng đoàng, tạch tạch, ầm ầm, xoàng xoàng… Quái ! Sao như súng nó cứ chĩa vô xóm mà nã vậy kìa ? Tiếng chân chạy thình thịch, tiếng la khan, tiếng kêu cứu, tiếng rên rỉ… quang cảnh hỗn độn lạ lùng. Mẹ con Hoà hoang mang kinh hãi, không còn biết tính toán chi cả, chạy tràn theo làn sóng người cuồn cuộn tuôn ra đường lớn.

Bỗng Mai nhớ lại là chưa kịp khoá cửa sau. Cô nói với mẹ :

- Mẹ với hai đứa chạy trước đi, con phải về khoá cửa sau lại đã.

- Thôi. Không được đâu con, chạy đi…

Nhưng mẹ chưa dứt lời Mai đã ù chạy về nhà. Hoà cũng nói :

- Để con về với chị Mai.

Và không đợi mẹ có bằng lòng không, nó chạy theo chị liền. Mẹ Hoà sửng sốt, bà không kêu được một tiếng, lặng người nhìn lửa cuồn cuộn loang ra, trông như có pha dầu.

Từng mái nhà ngùn ngụt bốc cháy, vèo một nhoáng đã hoá ra than đỏ. Tiếng nổ của súng có lúc chợt thưa đi, nhưng tiếng nổ của tre nứa, của đồ vật trong nhà thì càng dồn dập, nghe bong bóc, bong bóc…

Lửa phừng phừng, vút cao, lan rộng. Mẹ Hoà như mê đi, há hốc miệng nhìn những lưỡi lửa liếm ngoem ngoém một cách tham lam khủng khiếp… Còn hung hãn, tàn tệ hơn ác thú : lửa không nhai, nó chỉ táp qua một cái là tất cả các con mồi nát tan, biến dạng tức thì ! Gạch, ngói, tôn, cây, gỗ, bàn ghế, chăn màn…

Mà sao hai đứa con đi lâu quá ? Người mẹ cuống cuồng lên, bà không thể chia mình ra làm hai được. Bà không thể bỏ Bé đứng một mình để trở về tìm. Song bà cũng cố dỗ dành con :

- Con cứ đứng đây một chút, để mẹ về tìm anh Hoà với chị Mai…

- Không, con sợ lắm ! Mẹ đừng bỏ con…

Bé níu cứng tay mẹ, bà không rứt ra được. Nhìn quanh, chợt thấy bà Năm, mẹ Hoà mừng quá, vội vàng du Bé lại :

- Bà cho con gởi cháu… tụi nhỏ kẹt trong lửa…

- Chớ sao không dắt chạy một lần ?

- Khổ quá, đã chạy ra rồi chớ, mà…

Có bà Năm, Bé chịu để mẹ đi. Mẹ Hoà giao cái va li cho bà Năm giữ hộ luôn, băng mình chạy…

Lửa vẫn bốc rực trời, khói cay cả mắt. Hai dãy nhà, trong đó có nhà mẹ Hoà, đã làm mồi cho ngọn lửa. Chẳng thấy bóng dáng lũ con đâu. Chung quanh toàn lửa.

Vài người kêu khóc, tay chới với về phía nhà mình, có người lắp bắp mấy tiếng đẫm nước mắt : “Con tôi, con tôi… “ làm mẹ Hoà càng thất đảm.

Một toán lính trên toà lầu của hẻm trong, lăm lẳm chĩa súng xuống đám người khốn khổ, quát đuổi dồn :

- Mấy người kia, đi ra ! Mau !

Song không ai tuân lệnh. Họ cũng như mẹ Hoà, lạc con, cháy sạch cửa nhà, đã trở thành những người mất trí. Sau cùng, vài người lính phải xuống, vừa doạ, vừa dỗ dành dìu họ đi ra. Mẹ Hoà đi giật lùi, mắt vẫn đăm đắm nhìn biển lửa sau lưng… Không lẽ trời ác đến thế ? Chồng bà đã chết rồi… nếu quả hai con bà… nhưng kìa, có phải bà hoa mắt không ? Bà chớp mau mắt định thần nhìn kỹ : trong con hẻm nhỏ, hai con bà đang dìu nhau chạy ra, Mai tóc tai bơ phờ, một bên vai áo rách sả, còn Hoà thì nhem nhuốc những tro than. Nom thấy mẹ, cô gái oà ra khóc : “Mẹ ! Cái máy của con… “

Người mẹ mừng quá, tưởng như hai con từ cõi chết được hồi sinh, bà ríu lưỡi lại sà đến ôm chặt hai con. Giây lâu, bà mới lau nước mắt, thổn thức :

- Mẹ biết ! Mẹ biết ! Cháy hết rồi, cả nhà, cả máy… Nhưng phải cảm ơn Trời ! Mẹ con mình phải cảm ơn Trời…

Mai vùng ra khỏi tay mẹ, mở to mắt, tức tối :

- Cảm ơn gì ? Cháy tiêu tan hết mà mẹ biểu cảm ơn ?

Người mẹ đã bình tĩnh lại, giọng bà tin tưởng :

- Mình không mất hết : mẹ còn có các con. Rồi mình gầy dựng lại, con đã hiểu chưa ? Mình còn đủ tay chân…

Mai chưa hiểu, hay nói cho đúng, cô không chịu hiểu theo ý mẹ. Nhưng Hoà thì hiểu. Nó tìm mãi không ra một câu gì để làm chị bật cười, và nó vụt nhớ đến chuyện cái xe đạp cha hứa cho mình, Hoà nhìn chị nói :

- Thôi, chị đừng tiếc, tiếc cũng không còn. Chị coi, em không có xe đạp đây mà em có buồn đâu ? Hai chị em bây giờ bình đẳng, đều không có gì hết, tốt hơn ! Chừng em có tiền, em sẽ mua cho chị máy may trước, chịu không ?

- Thằng yêu ! Như thế này mà… còn giỡn được, tao chịu mày…

Mai nhoẻn cười, mắt vẫn còn long lanh ướt. Mẹ nói :

- Thôi, đi ra kẻo con Bé nó khóc, nó đợi ngoài kia !

Ba mẹ con nhìn lại biển lửa lần chót rồi bước mau. Chưa biết đi đâu. Cứ đi về hướng an toàn trước mặt. Họ không kêu ca, oán hận, khóc lóc nữa, vì trời còn rũ lòng thương : họ được đoàn tụ, nguyên lành. Thế là quí lắm rồi.

Phía sau họ, lửa vẫn tung hoành, tàn phá. Tiếng nổ của súng đạn, của tre nứa, của vật dụng vẫn liên tục, không ngừng…

MINH QUÂN

___________________________________________________________________________

CHƯƠNG V_LỬA DẬY TRỜI XUÂN

CHƯƠNG V

Ngày tháng dần qua. Thầy Lân lành hẳn vết thương, trở về đơn vị chiến đấu, mà chuyện đó trong quân y viện họ gọi bằng một cái tên là lạ, hay hay làm Hoà nhớ mãi không quên, đó là “Xuất Viện”.

Anh Miên thì thỉnh thoảng cũng có về thăm gia đình Hoà. Lúc nào anh ấy cũng nhớ đến cha Hoà. Anh nhớ từng chi tiết nhỏ, những sở thích của cha Hoà, từng thói quen, từng lời nói và cả những câu thơ. Có lẽ một phần lớn vì lẽ đó mà mẹ Hoà rất quí mến anh. Đôi khi mẹ Hoà giữ anh lại ăn cơm. Những bữa đó Miên vui ra mặt, còn chị Mai thì khác hẳn : chị vùng vằng, vũng vẵng trông thật buồn cười.

Mẹ biết vậy, nhưng mẹ cứ tỉnh như không. Chừng anh Miên về rồi mẹ kêu chị Mai ra, bố cho một trận nên thân. Mẹ la chị Mai đủ thứ : nào là kiêu ngạo, nào là vô lễ, bất lịch sự v.v… rồi bà dịu giọng lại một chút :

- Con đừng có làm bộ, làm cao. Nó sao mà chê nó ? Nó cũng tay chân, mặt mũi như người ta, học hành cũng… khá hơn con, nó lại cần cù chí thú làm ăn. Hay con chê nó nghèo ? Đừng có ham giàu, con ơi ! Đừng tưởng có chồng giàu mà sướng đâu. Hồi mẹ làm bạn với cha con, nhà còn nghèo hơn bây giờ nữa kia, mà mẹ có khổ đâu. Lấy chồng, cần nhất là được người biết thương mình, tốt bụng, chớ kể chi giàu nghèo ? Tiền của nó không ở lâu với ai đâu, đừng có bắt chước dân thành phố, ham tiền…

Chị Mai lầu bầu trong miệng :

- Ai thèm ham giàu… mà ghét cái quê…

Mẹ quát lên :

- Mai ! Mày nói cái gì đó ? Nói to lên tao nghe, coi nào ?

Chị Mai hơi hãi, lặng thinh. Bé nhanh nhẩu đoảng :

- Thưa mẹ, chị Mai nói “ai thèm ham giàu mà ghét cái quê” đó mẹ !

Hoà can thiệp :

- Con Bé nói bậy quá ! Con nít hớt lẻo phải không ?

Bé cao giọng lên :

- Em không hớt lẻo, tại mẹ hỏi chớ. Anh Hoà lớn sao mà kêu Bé là con nít ? Anh cũng con nít mà !

- Hai đứa kia im đi, ra ngoài chơi, để tao nói chuyện coi.

Nói vậy nhưng không đợi hai đứa ra ngoài chơi, mẹ đã quay sang phía chị Mai :

- Mai ! Nói tao nghe mày chê nó chỗ nào ? Sao mà kêu là quê ?

Hoà hơi run, coi bộ chị Mai lâm nguy rồi đây. Hoà vốn biết tính mẹ, khi nào bà không xưng mẹ,kêu con mà xưng tao và kêu mày thì là điềm xấu. Điều đó chứng tỏ lửa giận đã hun đốt nóng bà lên rồi. Coi chừng, không khéo… Hoà muốn báo động cho chị Mai mà không dám. Mẹ nóng tính không phải chuyện chơi đâu. Nó liếc sang Mai một cái. Cô chị vẫn bướng bỉnh như không thấy điềm xấu. Cô nhắc lại lời mình :

- Con đã nói con không có chê gì hết, mà con ghét cái quê !

- Chà, giỏi dữ ! Quê ! Còn mày thành thị, hử ? Rờ sau ót coi : cha mẹ mày có quê không, mà chê người ta quê ?

- Không phải con chê ảnh nhà quê, quê này là quê khác mà… mẹ kỳ quá. Mà con không ưng, con còn nhỏ, con ưng ở nhà với mẹ, với em con, chuyện gì mà lật đật ?

- Tao không lật đật gì ráo. Có điều, tao thấy nó dễ thương, biết lo làm ăn tử tế. Nó có bụng thương mày, thì tao…

- Mà con không thương, làm sao ?

- Thì thôi. Làm cha mẹ, tao không có ép. Chỉ e mày chê nó rồi lại thương nhằm đứa chẳng ra gì, lại cực một đời thôi, lúc đó đừng kêu trời trách đất, nghe con ?

- Con không thương ai hết, để mẹ coi.

- Đừng nói dóc, tao thấy cả trăm đứa nói như mày rồi. Tao nói cho biết vậy thôi, không ai ép uổng gì. Mà điều không ưng nó thì thôi, đừng có vùng vằng, làm bộ, người ta chửi con mẹ mày không biết dạy, nghe không ? Phải nhớ rằng cha mình đã chết trong tay người ta. Không phải hết con gái đâu, ăn ở cho nết na, đừng có bắt chước…

- Con không thèm bắt chước ai hết. Con làm gì mà không có nết ? Mẹ binh nó quá ! Sao nó dám chửi con ?

- Người ta lớn đáng anh cả mày mà mày kêu bằng nó hả ? Mai, liệu hồn, nghe chưa ?

Mẹ nói tới đó thì có bà Năm đến, làm mẹ phải dọn nét mặt hoà nhã để tiếp bà.

Chị Mai thừa dịp, chuồn vào bếp. Hoà ngẫm nghĩ mãi về câu chuyện mới xảy ra.

*

Kể ra Hoà thấy anh Miên cũng khá… dễ thương, song dễ thương là một chuyện mà chị Mai làm vợ anh ấy là chuyện khác, có liên quan đến quyền lợi Hoà nên Hoà hơi ngả về phía chị Mai.

Phải ! Chị Mai nói đúng : chị còn nhỏ, đi đâu lật đật ? Bây giờ mẹ gả chị cho anh Miên thì mệt Hoà quá. Nói chi xa, chỉ nghĩ đến nông nổi cái quần đứt chỉ, cái áo rách vai mà không có chị Mai, Hoà biết cậy nhờ ai ?

Tháng trước chị đau ốm qua loa chi đó, nằm có mấy ngày mà Hoà mệt đừ đi. Mẹ bận buôn bán ngoài chợ suốt ngày, Hoà phải kiêm nhiệm trăm thứ chuyện : nấu cơm, kho cá, giặt áo, giặt khăn, tắm rửa cho em Bé nữa. Cơm nước xong còn lo rửa bát, quét nhà… Dĩ nhiên, nếu Hoà không làm, mẹ cũng chẳng la rầy chi, mẹ sẽ cặm cụi làm lấy, nhưng Hoà không nỡ để mẹ vất vả như vậy. Tội nghiệp mẹ và chướng mắt lắm.

Nhà trường há không dạy người ta phải giữ tròn hiếu đạo đó sao ?

Từ khi đi thăm thầy Lân về, coi bộ Hoà phục thiện, giữ gìn tư cách hơn trước.

Tuy thầy không còn trở về trường dạy lại, song thỉnh thoảng cùng mẹ vô thăm thầy, Hoà được gần thầy và nghe thầy giảng giải nhiều điều hay, lẽ phải.

Những điều này có khi Hoà không hiểu hết, song Hoà cảm thấy nó đúng, nó hay, có lẽ phần lớn nhờ ở giọng nói truyền cảm và cái nhìn âu yếm của thầy Lân làm Hoà xúc động sâu xa. Thầy làm cho Hoà có cái hãnh diện mình là trang giấy trắng mới tinh khôi, thơm ngát, nguyên vẹn, rất quí báu đừng bao giờ để cho giây bẩn lấm lem, rách nát. Phải giữ gìn thận trọng để xứng đáng là học trò của thầy và con của một người cha tốt như cha Hoà. Dù bây giờ ông không còn nữa, không bao giờ Hoà được thấy ông nhưng mà trong cõi vô hình, một cái gì nhỏ nhít đến đâu ông cũng biết và ông sẽ cho là nhục nhã, là đáng buồn nếu đứa con trai ông yêu quí, đứa con trai độc nhất của ông không ở trong đường ngay nẻo thẳng như ông từng ao ước lúc sinh thời.

Một đôi khi, Hoà thấy thấm mệt vì cứ phải giữ mình trên con đường người lớn vạch ra sẵn đó. Song được cái, sau mỗi lần như vậy, Hoà bất chợt nhớ đến cái chết đau đớn của cha, đến lòng kỳ vọng của cha cũng như nhớ đến đôi mắt trìu mến, âu yếm và sự khuyến khích của thầy Lân, nhờ thế, Hoà lại dần dần phục hồi nghị lực và can đảm.

Nhưng mà, can đảm của Hoà đây nó chỉ có chừng mực, có giới hạn nào thôi, chứ không có nghĩa là Hoà đủ sức kiêm nhiệm chức vụ của người chị gái. Hoà cố để chống lại sự cám dỗ : trước và sau giờ học không la cà ngoài phố, ngoài mấy rạp ciné thường trực, không thèm mua những cuốn sách nhảm nhí có bìa hoe hoét, sặc sỡ, nhất là không bao giờ cho phép mình cầm đến cuốn kiếm hiệp cho thuê… Thế cũng là quá lắm rồi, đòi hỏi gì thêm e rằng Hoà kiệt sức mất thôi, trời ạ !

Vậy thì anh Miên, anh ấy cũng đừng chấp chới có cái tà ý cuỗm chị Mai của Hoà đi mất, không được đấy nhé ! Cảm tình với anh ấy là một chuyện, nhưng cảm tình đến nỗi không có biện pháp gì ngăn chặn ý muốn kia, đến nỗi để mất chị đi thì không, không bao giờ.

Vì lẽ ấy, Hoà đã một lần biên lá thư đúng theo ý chị Mai - có điều Hoà thêm thắt, sửa chữa lời văn đôi chút - từ chối mối tình của anh Miên.

Nói cho đúng với sự thật, ban đầu Hoà cũng không thích làm chi cái công việc của một tên thư ký không lương. Vả lại, chị Mai cũng có đi học, biết chữ nghĩa đàng hoàng chớ phải dốt nát chi sao ? Sao lại nhờ Hoà ? Nhưng khi Hoà vừa mở miệng chưa nói hết câu thì chị Mai đã gắt lên nho nhỏ (gắt to sợ mẹ nghe) thế này đây :

- À, Hoà làm ngặt chị phải không ? Một đời chị đã nhờ Hoà việc gì chưa ? Bây giờ là lần đầu… Ích kỷ phải không ? Được rồi, được ! Chị không nhờ Hoà nữa đâu. Từ này đừng có chị em với chị nữa, nghe không ? Đừng có mỗi chút mỗi kêu “chị Mai chị Mai” nữa, nghe không ?

Hoà chưa kịp phản ứng ra sao, chị đã thấp giọng xuống, chì chiết nghe thật khó chịu :

- Ở đó mà chực tao làm mọi cho, giặt áo, vá quần, mua mũ… thay bao gối…

Hoà cáu lên, nói không suy nghĩ :

- Thôi đi ! Làm chị mà ưa kể lể…

- Ai thèm kể lể với hạng mày ? Là tao nói cho biết vậy đó, hiểu không ? Từ này có thân thì lo lấy, chớ tao khỏi đi…

Hoà lạnh mình khi nghĩ đến sự trả thù của người chị cả ! Không, Hoà ngán lắm, sợ lắm. Lời đe doạ đó không phải là lời đe doạ suông đâu. Mà mình cũng kỳ - Hoà tự trách mình – khó nhọc gì cái thơ mà không viết phăng cho chị ấy ? Có khó hơn là làm bài luận đâu ? Huống chi, chuyện đó cũng nằm trong ý muốn của mình mà ! Chọc giận chị ấy làm gì nhỉ ?

Hoà vội vàng cười làm lành :

- Em nói chơi chút mà, chưa gì chị đã giận rồi. Chừng nào viết đây ? Viết sao đây, chị nói đi, em viết liền đây !

Tuy đã hài lòng nhưng Mai còn vờ chưa nguôi giận :

- Thôi ! Thôi, tôi không nhờ ai hết, khỏi ! Cảm ơn !

- Trời ơi ! Chị giận em thiệt sao ? Em đã nói em nói chơi mà, chị em mà…

Mai cốc lên đầu em một cái :

- Mày là con yêu…

- Thằng yêu chớ ! Em là con trai mà, con yêu sao được ?

Hoà chữa lại. Hai chị em cùng cười. Những tiếng cười ròn rã mà kể từ cha chết rất ít khi có dịp vang lên trong nhà.

Thằng em trai lo soạn giấy bút. Cô chị ngồi lại, tay bưng má, dáng bộ đăm chiêu suy nghĩ. Ấy là cô đang ngẫm nghĩ để đọc lên cho em mình viết lá thư, lá thư tình thứ nhất trong đời, tuy là lá thư tuyệt tình chứ không phải tỏ tình, song dù sao nó cũng là lá thư tình, cô cần thận trọng. Mẹ cô vẫn nhắc lại lời ông ngoại : bút sa gà chết kia mà! Đâu phải chuyện lơ mơ.

Coi vậy mà khó hơn cô tưởng, đã vậy thằng em “con yêu” không chịu thông cảm nỗi khó khăn của chị mình, nó không ngồi yên chờ mà cứ nhấp nha, nhấp nhỏm, giục :

- Rồi chưa ? Đọc lên em viết, làm gì mà ngồi sững hoài vậy ?

Chị Mai lại dỗi :

- Làm gì hối dữ vậy ? Mày không viết thì thôi. Đi chơi đi ! Tao không cần. Tao viết lấy cũng được.

Thật là quá sức, Hoà không nhịn được nữa :

- Vậy sao chị không viết đi mà biểu người ta ? Rồi còn làm bộ ?

- À ! Thằng này bây giờ hỗn quá rồi. Nói ai làm bộ ? Mày khinh tao không biết viết chắc ? Để coi tao có cầu lụy mày nữa không ?

Cô chị nói và giằng cây bút trong tay em, cắm cúi viết. Hoà lùi lại, nhưng vẫn không đi chơi đi như chị bảo, nó liếc mắt một cái coi thử chị viết ra sao.

Ban đầu, Hoà hí hửng vì thấy chị Mai sử dụng cây bút một cách ngượng nghịu, khó khăn : chữ cô không đều hàng, chữ trồi lên, chữ trụt xuống, nom như một lũ nhỏ lấc cấc không tề chỉnh chi hết, lại sai chính tả nhiều quá, ngứa con mắt làm sao ấy, không chịu nổi.

Hoà hết sức ngạc nhiên : sao chị mình cầm cây kim bé tí tẹo thì có vẻ thành thạo quá. Tay chị thoăn thoắt, mũi lên, mũi xuống, mũi nào cũng đều tăm tắp còn khi cầm bút thì tệ vậy ? Mà cây bút nhỏ bé gì cho cam, nó lớn gấp trăm, không, gấp ngàn lần cây kim ấy chớ !

Mới sáu hàng mà Mai đã có vẻ… mệt : mồ hôi dâm dấp ướt cả trán. Hoà thương hại chị, dịch lại gần một chút, nhỏ nhẹ :

- Đưa em viết dùm cho.

- Kệ cha tao, tao đã nói không cần mà.

Mai trả lời em giọng gắt gỏng, cụt lủn rồi mím môi, mắm miệng, hí hoáy, tiếp tục viết cho xong lá thư.

Hoà hầm hầm đứng dậy, đi thẳng. Đàn bà con gái không biết phục thiện. Mà lại làm bộ quá, khó ưa thật !

*

Hai ngày tiếp, hai chị em lầm lì nét mặt, không ai nói với ai một tiếng. Cho đến nỗi mẹ Hoà cũng để ý, bà hỏi :

- Hai chị em bây làm sao vậy ? Ngó thấy bây tao muốn no luôn ! Cái gì vậy ? Nói ra coi ?

Hai chị em vẫn im lặng, lầm lì. Mẹ lại nói :

- Có chuyện gì thì cứ nói ra. Dầu gì đi nữa tụi bay cũng là chị em mà ! Tao ghét cái điệu bộ đó lắm, bỏ đi ! Chị em phải thương nhau chớ.

Vẫn lặng im. Nhưng thừa một lúc mẹ mải nói gì với Bé, Mai khiêu khích em trai bằng một câu rấtác, chỉ vừa đủ lọt tai Hoà :

- Đó, mẹ hỏi đó kìa, khai ra ! Lập công đi !

Hoà giận run, nghẹn ngào không thốt được một tiếng. Phải chị Mai nhỏ như em Bé, Hoà đã tát cho vài cái mới hả. Nhưng đâu được, Mai là chị. Luật lệ trong nhà này không cho phép kẻ nhỏ áp dụng võ lực với người lớn. Phải dùng văn chương. Khốn nỗi, tuy cũng là tay văn chương có hạng ở nhà trường, Hoà lại có thói xấu là khi tức giận thì nguồn văn biến mất nên nghĩ mãi vẫn không ra một câu cho hay ho, sâu sắc mà trả đũa chị mình.

- Đồ hèn, con gái hèn !

Hoà mím môi phun đại một câu gồm năm tiếng ngắn, cũng chỉ vừa lọt tai chị mà thôi. Mai cáu lắm, tuy vậy, cô chị không nói gì, chỉ quắc mắt nhìn em, cái nhìn như ngầm doạ :

- Được rồi, mày sẽ biết tao !

Thằng em không phải tay vừa, nó vênh mặt lên nhưng không nhìn chị, vì mắt mai sắc lắm, dữ lắm không mong gì áp đảo chị bằng mắt được. Hoà tìm ra cách khác, Hoà nói với em gái, ỡm ờ như một lời nói chơi, song là một lời nhắn… đầy khiêu khích :

- Đồ co gái hay làm bộ, hay ỷ thế, tao không ngán mày đâu.

Nghe anh gọi mình bằng mày, Bé liền dẩu miệng, phản đối :

- Anh Hoà không được kêu em Bé bằng mày, anh Hoà phải anh em với em Bé chớ !

Đang giận chị Mai, tai Hoà ù sẵn, nên Bé nói tiếng chớ mà Hoà lại nghe ra là chó. Cơn giận được dịp bùng lên : Hoà nghiến răng tát em hai cái liền, miệng nói :

- À, mày hỗn hả ? Dám nói anh là chó hả, coi đây !...

Bé oà khóc to. Mẹ nhìn má con út đỏ bừng, in dấu bàn tay anh, mẹ tức lắm. Mẹ quát ;

- Thằng Hoà kia ! Mày thua đâu mà gỡ em là sao ? Nó can phạm gì đến mày ? Nó nói cái gì mà mày đánh nó ? Nó có nói mày chó đâu ? Mày điếc phải không ?

- Hu, hu, hu… con nói anh Hoà phải anh em với em Bé mà… hu hu…

Để cho yên, mẹ phát vào mông Hoà hai cái tiếp và nói :

- Này, bỏ thói ăn hiếp em, nghe chưa ? Lần sau mẹ đánh cho năm roi chớ không phải phát sơ sơ vầy đâu, nghe chưa ?

Mai buông đũa đứng lên quay phía khác, cười một mình, nhưng Hoà trông thấy, nó càng tức lồng lên. “Được rồi, lát nữa mẹ lên chùa rồi biết”.

Nói vậy, nhưng lúc mẹ dắt Bé đi rồi, nhà còn hai chị em, Mai cặm cụi may áo cho Bé, Hoà lại nguôi giận. Nó thấy hối vì đã mắng chị là đồ hèn. Đáng lẽ, Hoà chỉ nên nói thế này :

- Ta không phải hạng tiểu nhân đâu.

Phải ! Nói vậy nghe có vẻ hay ho, lịch sự biết bao nhiêu ? Mà chị Mai nghe, chỉ còn nể mình nữa là khác. Ai lại nói nặng chỉ như vậy bao giờ, chỉ là chị mình mà !

Mai ngồi nghiêng, chăm chú làm việc. Cô không biết em trai đang ngắm trộm mình. Mũi kim trong tay cô thoăn thoắt xuống lên, qua lại đều đều theo một nhịp điệu riêng, trông hay quá !

Mái tóc dài, xoã xuống hai vai, óng ả, mềm mại, vài sợi loà xoà buông rũ, che khuất đi một bên tai, làm tối nửa khuôn mặt cô và càng làm cô có vẻ đẹp mơ màng, huyền diệu làm sao !

Vầng trán phẳng, đôi mày thanh, mũi thẳng, không cao lắm, đều đặn trên chiếc miệng nhỏ xinh xinh, môi cô hồng nhạt và răng trắng bóng. Mai có vẻ hãnh diện về hai hàm răng của mình và cô có quyền săn sóc hai hàm răng một cách tỉ mỉ, đặc biệt là không bị mẹ mắng bao giờ. Trái lại, mẹ không bằng lòng cho cô trang điểm… một tị. Mẹ nói :

- Không có gì quí bằng sự tự nhiên. Tô chuốt vô làm chi, giả tạo… Đừng bắt chước người thành phố phấn son loè loẹt, hư nước da đi. Coi mẹ đây, mẹ không ưa trò giả dối. Trời sinh sao để vậy, hay hơn.

Ban đầu, Mai hơi phản đối, nhưng bây giờ thì cô nghe lời mẹ rồi. Vì mấy lần đi giao hàng cho cô Liễu trước nhà, đến lúc sáng sớm, cô ta chưa kịp trang điểm, trông cô xấu tệ, đến nỗi Mai suýt không nhận ra : da cô tái nhợt, môi thì thâm tím, trông thật khó coi.

Hoà không có ý kiến gì về việc đó. Dù chị Mai có trang điểm hay không chị vẫn đẹp, vẫn là chị của Hoà. Điều làm Hoà bực mình là mỗi bận hai chị em đi đâu mà nghe có người khen Mai và hỏi : “Chừng nào có chồng ?” Bực nhất là khi có mấy anh tre trẻ theo kiếm chuyện làm quen. Hoà sợ và… khinh nữa. Hoà không ưa hạng con trai như thế. Cái gì mà thấy con gái là sà tới như ruồi thấy mật ? Hoà vốn không ưa con gái đàn bà, họ lắm chuyện, họ khó chịu, họ nhiều lời (trừ mẹ với chị Mai ra) Hoà cảm tình đặc biệt với con trai nhưng Hoà ghét cay ghét đắng những người con trai nào ngấp nghé chị mình. Hoà mà lớn lên Hoà sẽ không bao giờ giống mấy người đó. Lại định làm quen, lui tới như kiểu anh Miên hẳn ? Chắc thế ? Đừng hòng : có Hoà đây, Hoà nhất định cản cho đến cùng, chị Mai của Hoà ! Đừng tưởng dễ đâu…

- Hoà còn giận chị không ?

Thình lình, chị Mai ngừng làm việc nhìn Hoà chăm chú, hỏi. Hoà chỉ mong có thế, nhoẻn cười :

- Không ! Em có giận chị đâu ? Chị là chị của em mà.

- Em thương chị không ?

- Thương chớ, chị là chị em mà, sao lại không thương ?

- Thương sao mắng chị là đồ hèn ?

- Tại em tức chị…

- Còn tức không ?

- Hết rồi. Tại chị thách em, em đâu có hớt lẻo như con Bé ? Em biết giữ bí mật cho chị mà ?

- Em ưng chị đi lấy chồng không ?

- Không ! Chị ở nhà với em với mẹ chớ, lấy chồng làm chi ? Ngu sao bỏ nhà mình đi theo họ ?

- Bộ chị ở nhà hoài sao ?

- Ở hoài. Nữa em lớn em có nhiều tiền, em cho chị hết.

- Dóc đi ! Hay là cho gái ? hay là theo gái ?

- Em mà theo gái ? Em đâu giống tụi khỉ hay theo bên chị ? Em khác mà !

Chị Mai cười sặc sụa. Hoà tức lắm, gặng :

- Chị cười em phải không ? Em nói thiệt mà.

Chợt nhớ chuyện cái thư, Hoà hỏi :

- Chị gởi cho anh Miên chưa ?

- Chưa.

- Sao vậy ?

- Chị hết ghét ảnh rồi. Để ảnh cưới cũng được.

Hoà nhảy nhổm lên :

- Em không chịu đâu…

Người chị ỡm ờ :

- Nói nghe hay không ? Ảnh cưới chị chớ có cưới em đâu mà em không chịu ?

Hoà không để ý chị trêu mình, nóng nảy :

- Sao chị đổi ý mau vậy ? Kỳ vậy ?

- Không ! Chị đâu có đổi ý, tại em chớ. Em muốn vậy mà !

- Em muốn cái gì đâu ? Ai nói với chị là em muốn chị có chồng đâu ?

- Thì em không viết thơ giùm chị, chị viết chữ xấu lắm, người ta đọc người ta cười… nên chị…

Hoà gầm lên :

- Sao em không viết, tại chị chớ. Bây giờ đưa đây em viết cho, viết liền.

Vậy là cậu em mắc bẫy ! Hoà nói xong, phóng ba bước lại bàn học lục giấy bút. Lần này, không phải người chị sốt sắng mà chính là cậu em trai. Hoà giục chị :

- Rồi đọc đi, em viết liền đây !

- Khỏi đọc.

- Khỏi đọc ? Em viết sao được ? Chị giỡn hoài.

- Không giỡn đâu, này : có cái thư chị để dưới gối đó, lấy ra coi mà chép lại, khoẻ ru.

- Được rồi, viết xong chị cho em hai chục nghe không ?

- Chi vậy ? Đòi tiền công hả ? Vậy mà nói thương chị…

- Không phải, ai đòi tiền công bao giờ ? Tại tóc em dài rồi mà mấy bữa nay chưa có tiền đi hớt chớ.

- Được, viết xong cái thơ đi, rồi hay.

Hoà phóng ba bước vô phòng chị, lấy cái thư ra, trải trên bàn, lẩm nhẩm đọc.

Mai la lên :

- viết lẹ đi cho rồi, đọc chi mất công ? Mẹ về giờ đó.

- Em phải đọc qua đã chớ ? Chi gấp vậy ? Em làm sao xong thôi mà.

- Viết rồi đưa tao coi lại, nghe ?

- Được rồi, để em, chị lo công chuyện chị đi, nói hoài bên tai, làm sao viết xong ?

Ban đầu, Hoà định làm y lời chị, nghĩa là chép nguyên văn lá thư Mai viết sẵn khỏi nhọc công. Hiềm nỗi lá thư dở tệ, coi không chỉnh. Hoà phải chịu khó sửa lời, đổi chữ, thêm chỗ này, bớt chỗ kia cho nó trở thành một lá thư hoàn hảo. Một lá thư nhã nhặn mà cương quyết, lịch sự mà rắn rỏi, theo ý Hoà. Đành rằng việc của chị nhưng chị đã nhờ thì phải tận tâm, vả lại Hoà cũng có lý do riêng để mà tận tâm, hay nói cho đúng bề ngoài thì là riêng của chị song kỳ thật cũng có liên quan đến Hoà, hăm doạ đến quyền lợi của Hoà, Hoà không thể coi thường được. Dù rằng cái thư đó đã là đầu mối bất hoà giữa hai chị em, họ đã cãi nhau, giận nhau – chưa kể em Bé vô cớ bị tát và Hoà bị mẹ phát vào mông – nhưng bây giờ thì mọi việc đã qua rồi.

Hoà theo đúng nguyên tắc viết thư : đề ngày tháng đàng hoàng trên đầu trang giấy.

Câu mở đầu thật khó. Hoà ngẫm nghĩ mãi không biết nên viết : “Kính gửi anh” hay chỉ viết “Gửi anh Miên” thôi ? Lại còn lối xưng hô nữa. Xưng em, xưng tôi, hay xưng tên ? Đắn đo một chút Hoà quyết định bỏ chữ Kính, chuyện gì phải kính với cẩn ? Bộ anh Miên lớn hơn ai lắm sao ? Và xưng là tôi, không xưng em, cũng chẳng xưng tên, xưng tên hay xưng em có vẻ thân mật quá, không được. Một lá thư như vậy phải giữ đúng mức lạnh nhạt, xa cách. Có thể vì cách xưng hô mà cái thư trở thành vô hiệu quả cũng nên. Không được để cho khoảng cách bị xoá đi do lời lẽ trong thư. Phải viết cách nào mà đọc xong không bao giờ anh Miên ảnh còn có thể viết thêm cái nữa cầu thân mới được. Cũng không tỏ ra khinh bỉ hay hỗn hào, ảnh xung lên, ảnh mách với mẹ thì khốn cho cả hai chị em. Phải công bình mà nhận rằng ảnh chỉ dễ ghét về chuyện ưng cưới chị Mai, chớ thật ra ảnh dễ thương, bây giờ ảnh bỏ ý định đó đi thì ảnh dễ thương liền. Mẹ vẫn thường nói : “cha bây chết trong tay người ta” mình phải biết điều một chút.

Hoà đặt bút, nắn nót :

“Gửi anh Miên,

Tôi là Mai đây. Tôi xin trả lời thư anh viết bữa kia. Đáng lẽ, tôi phải viết trả lời anh sớm hơn, mà vì bận việc quá, xin anh tha lỗi.”

Đến đó, Hoà buông bút ra, cười khúc khích. Mai nghe tiếng em cười, liền hỏi :

- Cười gì đó, Hoà ?

- Em cười chuyện em nói láo : em viết là tại chị bận việc nên không trả lời thơ cho anh Miên, mà thiệt ra là tại chị viết chữ xấu quá, sợ ảnh cười…

Mai sừng sộ ngay :

- Rồi có sao không ? Bộ mày cũng cười tao chuyện đó nữa phải không ?

- Em đâu có cười chị ? Em cười em mà.

- Thôi, viết lẹ đi, ngồi đó mà cười, mẹ về đa !

Hoà viết tiếp :

“Anh Miên ơi ! Tôi biết rằng anh quí mến gia đình tôi, quí mến cha mẹ tôi, anh đã giúp đỡ gia đình tôi nhiều khi cha tôi mất. Gia đình tôi cũng như tôi, ai cũng nhớ ơn anh, không bao giờ quên ơn ấy.”

Lại buông bút xuống, cắn môi suy nghĩ. Sắp đến đoạn chính, đoạn quyết liệt mà ! Khó quá đi thôi ! Viết cách nào đây ? Tôi không lấy anh đâu ? Tôi ghét anh lắm ? Hay là Anh đừng hòng cưới tôi ? Ai thèm cái mặt quê của anh ? Bậy ! Không xuôi tai. Phải viết sao cho xuôi tai, lịch sự mà cứng cỏi mới được.

Thình lình, Hoà vụt nhớ ra một câu rất hay ho, văn vẻ, cái câu đâu trong cuốn sách thuộc loại “Học Làm Người” mà Hoà nhận được trong dịp lãnh thưởng cuối niên khoá trước. Câu ấy thế này : “Tôi có thể nói thẳng với anh”. Chao ! Cái câu mới tuyệt làm sao !

Ngắn, gọn, mà đầy đủ, mà hàm xúc biết là bao nhiêu. Câu đó, người ta phải hiểu như thế này : Nghe đây, anh kia ! Ta nói cho mà biết : những điều ta sắp nói với anh đây (với trường hợp Hoà bây giờ là sắp viết) toàn là sự thật, rất đúng, rất hay, rất chính xác, không bao giờ sai chệch hay thay đổi lấy một ly con, anh phải nghe theo ! Hãy nghe và nhớ kỹ, đừng cãi lại làm chi, vô ích !

Hay là – Hoà nghĩ thầm – mình bỏ đi bớt hai chữ “có thể” mà thay vào bằng chữ khác, chẳng hạn như : tôi xin nói thẳng với anh, hay là : tôi thấy cần nói thẳng với anh, hoặc là : tôi muốn nói thẳng với anh… Phải ! Ai lại để nguyên văn câu trong sách, ngộ anh Miên anh ấy đã đọc cuốn đó rồi thì đố khỏi ảnh cười cho mất mặt.

Hoà hết sức đắc ý, nhưng biết rằng chị Mai không hiểu nổi sự tế nhị của mình, có nói với chị cũng vô ích mà thôi. Chị sẽ nói ;

- Mày nói sao đó tùy mày, miễn nó đọc xong nó đừng lui tới nữa là tao mừng rồi.

Cho nên, Hoà thưởng thức một mình sự đắc ý đó, và yên lặng viết :

“Đến đây, tôi muốn nói thẳng với anh điều này, đó là chuyện anh định đi hỏi tôi làm vợ. Tôi không ưng lấy chồng, tôi ưng ở nhà hơn. Tôi phải ở nhà với mẹ tôi và hai đứa em nhỏ của tôi. Tôi lấy chồng sao được ? Tôi không thể bỏ mẹ và hai em được. Anh đừng buồn mà cũng đừng giận tôi. Anh nên kiếm người khác, thiếu gì con gái ? Trong thơ anh có viết là anh sẵn lòng đợi vài năm nữa, không gấp gáp gì, nhưng mà không phải vậy đâu, anh Miên à ! Anh đừng đợi vô ích. Tôi không muốn anh đợi đâu, vì tôi không ưng anh mà ! Anh hiểu rõ chưa ? Chắc anh hiểu rồi chớ ?

Thôi, tôi xin vắn tắt vài giòng cho anh biết, anh đừng đeo đuổi làm chi. Tôi nói thật đó. Tôi biết rằng nếu mẹ tôi mà biết chuyện này thì sẽ la tôi dữ lắm, nhưng tôi cũng phải chịu chớ không thể nào đổi ý được. Biết chừng đâu anh với tôi không có duyên nợ với nhau, chắc vậy.

Xin chào anh và chúc anh vui vẻ, mọi điều như ý”.

Đọc lại một lượt, Hoà mỉm cười vì thấy cái thư quá suôn sẽ, hay ho. Dù rằng đoạn dưới có hơi cứng, quá cứng là khác, nhưng không thể dịu dàng được trong cái thư có mục đích thoái thác sự cầu thân. Nó phải như vậy. Nếu là một bài luận chắc chắn được ít ra cũng 15 điểm ! Tiếc rằng nhà trường không bao giờ ra bài luận có tính cách như vậy để Hoà có dịp trổ tài.

Cậu em hí ha hí hửng lại gần chị, dặng hắng lên giọng :

- Chị nghe em đọc đây.

- Rồi, đọc đi, tao nghe !

Mai buông kim chỉ, lắng tai. Hoà chẫm rãi đọc, Mai gật gù ra tuồng hài lòng. Đợi em đọc xong, Mai đón cái thư ngắm nghía. Hoà liếc chị một cái, hỏi :

- Được không ? Em viết được không ?

- Cũng được… được…

Nghe chị buông hai tiếng được được một cách hờ hững, Hoà phật ý lắm. Hừ ! Công phu của người ta như vậy mà không có lấy một tiếng khen, nghĩ có chán không ? Đời nào Hoà chịu ? Hoà gặng lại :

- Được được là sao ? Chị nói rõ coi, hay là chị chê ?

Và nó nhoài tới, giật cái thư trên tay chị làm Mai hốt hoảng ngăn lại :

- Thôi mà, hay mà ! Chị biết em viết hay mà !

Hoà nhoẻn cười, giục chị :

- Bây giờ chị ký tên vô đi.

- Em ký giùm chị luôn không được sao ?

Hoà thoái thác bằng giọng hiểu biết :

- Đâu được ? Thơ ai nấy ký chớ !

Vậy là Mai phải làm theo lời Hoà.

- Rồi ! Thôi đưa em, em đem bỏ vô thùng cho xong.

- Khoan, để chị coi lại lần nữa đã. Gấp gì ?

*

Mai không cho em đi bỏ thư một mình. Vốn tính cẩn thận cô sợ em mình đánh rơi dọc đường, ngộ ai nhặt được thêm phiền ra. Cô chỉ cần một người biết, người ấy là Miên, thư mà rơi rớt không tới tay anh ta, anh ta đeo đuổi hoài, mệt quá, cô không muốn. Mai thân mang thư ra tận thùng, chính tay mình bỏ vào đó, nghe cái thư rơi đánh “xoạch” một cái, Mai vui vẻ, xoa tay trở về nhà, lòng nhẹ nhõm.

Từ bấy giờ chỉ còn ngồi chờ kết quả. Chắc thế nào anh ta cũng mang cái bộ mặt trời sầu đất thảm đến nhà một lần nữa, chớ dễ gì… rút lui liền. Mặc kệ, muốn làm gì thì làm. Mai đã không ưa là không ưa. Một ngày, hai ngày, ba bốn ngày qua, rồi một tuần. Lạ quá.

- Hoà, em nghĩ sao ?

Mai băn khoăn hỏi em, song Hoà đã quên phắt đi rồi, hỏi lại :

- Nghĩ sao cái gì, hả chị ?

- Chuyện cái thơ đó mà, mày sao mau quên quá. Chắc nó đọc, nó tức hộc máu ?

- Kệ ảnh chớ, chị để ý làm chi ?

- Chị muốn biết thử…

- Chị nhiều chuyện quá, ưa…

Câu chuyện bị ngắt đi vì mẹ về. Mai lo dọn cơm. Thình lình mẹ hỏi :

- Mấy bữa nay sao không thấy thằng Miên tới chơi, kìa ?

Mai và Hoà im lặng, cắm cúi và cơm. Mẹ lại hỏi :

- Tụi bay có đứa nào nói gì nó không ?

- Dạ, đâu có nói gì ? Chắc ảnh mắc công chuyện nhiều…

Hoà bình tĩnh trước chị Mai, trả lời mẹ. Mẹ vẫn chưa tin, gặng :

- Chắc không ? Không đứa nào làm mất lòng nó hả ?

- Mẹ hỏi lạ quá, tụi con làm gì mất lòng họ ?

- Ừ, vậy thì tốt. (Mẹ ném cho chị Mai cái nhìn dò hỏi) Phải nhớ rằng người ta là người ơn của nhà mình. Phải tử tế với người ta, nhứt là con Mai… đừng làm người ta buồn, nghe không ?

Im lặng. Mẹ hét lên :

- Tụi bây câm hả ? Có nghe tao dặn gì không ?

Tuy là mẹ nói “tụi bây” nhưng Hoà hiểu ngầm là mẹ chỉ nói đến chị Mai, mình vô can, nên thấy rất vững tâm. Mai dạ một tiếng nhỏ, bụng tức tối lắm mà không dám phản đối. Cô không hiểu mẹ có biết chuyện cái thư không ? Hay là nó đã gặp riêng mẹ mà nói gì rồi ? Thằng như vậy mà tiểu nhân quá !

Bữa cơm buồn tẻ, em Bé biết mẹ đang bực mình, không dám trò chuyện mè nheo chi cả. Ngoài tiếng bát đũa va chạm, tiếng nhai, tiếng húp canh sì soạt của Bé không có tiếng gì khác. Một con nhặng vo ve lướt qua mâm cơm.

Không biết anh Miên là cái gì mà mẹ quí dữ. Hoà lẩn thẩn nghĩ.

Trong lúc Mai hí hoáy rửa chén bát, Hoà lo rửa ráy cho em Bé. Bỗng Hoà nghe loáng thoáng có tiếng mẹ nói chuyện với ai trên nhà. Hay là… đâu có lý ?

Mai thì trống ngực đập thình thình, mặt xám ngoét vì tức giận. Hoà ngẩng lên : Miên sừng sững trước hiên. Chỉ có hai người tíu tít đón mừng anh : mẹ và em Bé.

Mai không vui là phải, còn Hoà tuy không ác cảm với Miên nhưng vì cậu đã âm mưu loại Miên ra khỏi gia đình trong lúc anh ta đang tìm cách bước vào ; vì vậy Hoà cũng ngượng, không thể nào niềm nở, tự nhiên như mọi bận.

Khác hẳn những lần thăm viếng trước đây, Miên không hay nói, chỉ trả lời gióng một những câu mẹ hỏi. Mẹ Hoà quan sát Miên một lát, vùng kêu lên :

- Miên ! Cháu đau phải không ?

- Dạ, thưa bác, con có đau ốm gì đâu ? Con mạnh như thường.

- Sao coi cháu ốm quá vậy ? Phải giữ gìn sức khoẻ, đau ốm cực lắm. À ! Năm nay cháu có tính thi không ? Bữa trước bác nghe nói cháu định thi vô…

- Dạ, thưa bác, chắc không… cháu phải đi làm, không có nhiều thì giờ. Với lại cháu sắp đi xa, hết muốn làm gì…

Anh Miên nhấn mạnh ba tiếng sắp đi xa, cố cho Mai nghe được. Mẹ Hoà hốt hoảng :

- Có chuyện gì vậy ? Nói bác nghe coi.

Miên xúc động quá, muốn nói toạc ra, nói hết, nhưng anh giữ lại. Thôi ! Người ta đã không yêu mình thì thôi, đàn ông con trai không có quị lụy, hèn hạ, người ta khinh. Anh nén một tiếng thở dài, cố giữ giọng tự nhiên :

- Thưa bác, đâu có chuyện gì. Cậu Tư cháu ngoài Tuy Hoà mới mở cái xưởng sửa xe hơi, ông kêu cháu ra phụ, coi ngó. Ở nhà cũng bực, bả cứ kiếm chuyện hoài, cha cháu thì hay nghe lời chửi bới tụi nhỏ, mà cháu có nói tới thì cũng bị chửi luôn.

Mẹ Hoà tặc lưỡi, giọng xót xa :

- Khổ quá, sao bả không biết nghĩ, không thương người ta, người ta ngắn số…

Mai và Hoà hồi hộp lắng tai, đến đó cả hai thở phào nhẹ nhõm. Hoà lo nơm nớp : anh Miên mà mách chuyện cái thơ thì Hoà ốm đòn, con nít mà dám… Mai cũng hãi lắm. Tuy miệng mẹ nói không ưng thì thôi, nhưng mẹ vẫn nghĩ rằng có thể dỗ dành Mai được. Nếu mà bà biết hai đứa âm mưu thì… nguy to.

Câu chuyện thưa dần, cho đến một lúc, Bé ngáp dài :

- Con buồn ngủ, mẹ !

Miên đứng lên, từ biệt. Mẹ Hoà cầm lại :

- Cháu ngồi chơi, còn sớm mà.

- Dạ, thưa bác, cho cháu về.

- Chừng nào cháu đi, qua ăn cơm một bữa, nghe không ?

- Dạ, thưa bác, không biết bữa nào đi, với lại cháu bận quá, còn phải lo mua ít đồ đạc cho cậu cháu, tìm hơi khó, cháu sợ không qua được… Bác tha lỗi.

Miên thối thoát. Mai hiểu rõ lý do khiến Miên đi, khiến Miên từ chối lại ăn cơm. Cái thư hiệu quả thật. Thằng Hoà đáng thưởng hai trăm chớ hai chục nghĩa lý gì ? Mai mừng trong bụng chỉ muốn hét toáng lên, song không dám. Cô vẫn ngán mẹ biết.

Chào mẹ và em Bé xong, Miên chào Mai. Đến lượt Hoà, anh không chào mà lại bảo :

- Hoà ra đây với anh một chút, em !

Hoà đứng lên, ngoan ngoãn theo Miên ra ngõ. Mai dõi theo, thấy bóng em khuất dần sau dãy rào dâm bút, đâm lo sợ vẩn vơ. Chả lẽ lại chạy theo ra, không tiện, đành phải đứng yên chờ, ruột nóng như lửa đốt.

Trong ánh sáng của ngọn đèn đường vàng úa, sầu thảm, Miên rầu rĩ hỏi Hoà :

- Em viết thơ anh phải không ?

Hoà giật mình, không chối được, đành phải nhận :

- Dạ, phải, mà không phải tại em, tại chị Mai…

Miên chặn lại, cười buồn :

- Anh biết, anh hỏi lại cho chắc vậy thôi, anh đâu có trách em ?

Hoà cúi mặt, không dám nhìn Miên. Hoà sợ đôi mắt âu sầu của Miên, nó làm sao ấy, nó làm Hoà nao cả lòng. Tội nghiệp anh ! Giọng Miên lại đột ngột nổi lên sau một phút im lặng bao quanh hai người :

- Anh sắp đi xa. Anh nhờ em một chuyện, được không ?

- Dạ được chớ, mà chuyện gì, anh ?

- Em đưa thơ này cho chị Mai. Từ nay anh không lui tới nhà em nữa đâu.

- Em không dám, sợ chị Mai la quá.

- Vậy là em không chịu giúp anh phải không ?

Hoà do dự. Miên nói tiếp :

- Anh chỉ nhờ em một lần này thôi. Không bao giờ phiền em nữa đâu.

Trông bộ dạng thờ thẫn của Miên, Hoà không thể nào từ chối :

- Dạ được, anh cứ đưa em, em sẽ giao lại chị Mai.

- Cảm ơn em lắm, em tốt lắm, Hoà ơi !

Miên cho tay vào túi áo, lôi cái thư ra đưa Hoà.

- Thôi, anh về nghe ! Em vô đi, kẻo nhà trông.

- Anh viết thơ cho em chớ ?

- Viết thơ ? Viết làm chi ? Cô Mai sẽ cho là anh làm bộ viết cho em để hỏi dò tin cô ấy. Anh không muốn cô hiểu lầm, anh muốn quên…

- Dạ.

Hai người chia tay. Hoà nhét phong thư vào túi quần trong lúc Miên cúi đầu rảo bước. Hoà dõi mắt theo bóng anh con trai, nó mang máng biết rằng anh sầu khổ, ốm o vì chị mình. Thật là vô lý, thật là trẻ con hơn cả trẻ con. Hoà tự nguyện sau này khi lớn lên sẽ không bao giờ khổ sở vì một chuyện vô lý, trẻ con như vậy.

Hoà tặc lưỡi một cái cho đầu óc khỏi bị ám ảnh vì chuyện khổ sở của Miên, phóng như bay về nhà. Mai đón em ở ngõ, hỏi dồn :

- Hoà ! Đi đâu lâu lắc vậy ?

- Đừng nói to mẹ nghe. Có cái này của anh Miên gởi chị đây.

Trong bóng tối, mắt Mai long lanh sáng :

- Gởi cái gì ? Ai biểu mày nhận, con khỉ ? Ngu !

- Không có gì hết, cái thơ, mà chị không nhận thì thôi, mắng người ta cái gì ?

Mai nguẩy đi :

- Mày nhận thì mày đọc đi, tao không thèm đọc đâu. Tao không biết…

Hoà bực mình, gắt lại :

- Không biết thì thôi. Người ta đi xa, người ta nói người ta không tới nữa. chị khó chịu lắm.

Hoà quay đi, tay khư khư giữ chặt lá thư. Mai lập tức theo gót em. Tuy cô ghét nhưng vẫn muốn biết trong thư nói những gì. Cô bảo em :

- Đưa cái thơ cho chị coi thử, đi Hoà !

- Đưa làm chi ? Chị đã nói không thèm mà.

- Thì không thèm chớ sao, mà nó gởi cho chị chớ phải cho em đâu ?

- Chị không ưa thì thôi, lấy thơ làm gì ?

- Tao đâu có lấy ? Tao coi chút thôi.

- Em cũng coi nữa, chịu không ?

- Rồi, đưa đây, tao cho coi, hai chị em coi chung, quí báu gì mà giấu ?

Hoà trao phong thư cho chị. Hai chị em se sẽ vô phòng, vặn đèn sáng, chụm đầu lại đọc :

“Cô Mai,

Tôi đã được thơ cô rồi. Tôi cũng đã đọc kỹ hai ba lần rồi. Tôi không dám trách cô điều chi và tôi cũng không bao giờ hèn hạ tới mức kể chuyện này lại với bác, xin cô yên lòng, tôi đâu phải tiểu nhân lợi dụng lòng thương của bác để cưới cô ? Tôi vẫn yêu cô, dầu rằng cô hất hủi tôi, không đáp lại mối tình chân thành tha thiết của tôi.

Tôi thề từ nay mà đi, không bao giờ quấy rầy cô nữa, không bao giờ tôi lui tới làm rộn, làm phiền cô nữa. Tôi sẽ đi làm ăn xa lắm. Dầu rằng ở đâu, làm gì tôi cũng khó quên cô, nhưng mà tôi sẽ cố. Có lẽ tôi không xứng đáng với cô. Tôi cầu chúc cô ở lại bình an và gặp người vừa ý, xứng đáng hơn tôi.

Tôi không biết nói văn chương như trong tiểu thuyết, nhưng tôi có thể nói rằng tôi không bao giờ yêu ai nữa trong suốt đời tôi, vì hình bóng cô ngự trị trong tim tôi mãi mãi. Tôi xin được giữ trọn hình dáng đó…”

Đọc đến đây, Mai bĩu môi “xùy” lên một tiếng, còn Hoà thì tấm tắc khen “hay quá”. Mai giục em :

- Thôi, đọc tiếp đi, ngồi đó mà khen.

Hai chị em lại chụm đầu vào lá thư đọc nốt :

“Xin cô Mai nhớ cho rằng dầu biển dâu thay đổi, tôi vẫn không thể quên cô. Dầu trôi giạt nơi chân trời góc biển, tôi vẫn nhớ đến cô. Tôi biết rằng tôi ngu dại lắm nên mới yêu cô, một cô gái khinh người, kiêu ngạo, nhưng mà tôi đành chịu thua tình cảm của tôi.

Trước khi dừng bút, tôi xin chân thành cầu chúc cho cô được hạnh phúc, vậy là đủ vui rồi. Chào cô. Người bất hạnh : Lê Đình Miên” (Ký tên).

Hay thiệt là hay ! Em chưa đọc cái gì mà hay như cái thơ này, chị thấy không ?

Mai thở phào một cái, phê bình :

- Dóc tổ ! Tiểu thuyết quá trời như vậy mà nói không tiểu thuyết, xạo ! Đưa đây !

- Đưa chi ?

- Đưa tao đốt, chớ đưa làm chi ? Thằng này hay chưa ? Tính giữ làm của hả ?

- Uổng quá, chị Mai cho em đi !

- Cho mày ! (Mai trừng em một cái) hết chuyện rồi chắc ?

Và Mai chìa tay ra. Trông dáng điệu quả quyết của chị, Hoà đành trả cho chị tuy trong lòng nó hết sức tiếc rẻ, chỉ muốn cất lại, lâu lâu lấy ra đọc chơi. Không do dự một giây, Mai giật phăng lá thư, xé toạc ra. Hoà nói như rên :

- Anh Miên mà biết chắc ảnh khóc quá, chị Mai ơi !

- Cho khóc, đáng đời !

Mai nói, giọng lạnh băng, không mảy may cảm động, khác hẳn thằng em trai đa cảm của mình.

Thế là xong : một thiên tình sử vừa tan nát theo lá thư xanh, chấm dứt trong bóng tối.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VI

CHƯƠNG IV_LỬA DẬY TRỜI XUÂN

CHƯƠNG IV

Hoà đang học bài để thi. Trong đầu nó hai ý kiến tương phản như hai cái mũi nhọn cứ chực đâm nhau. Ban đầu Hoà nghĩ “phải rán học để thi đậu, mẹ mừng”. Rồi nó lại nghĩ : “Đậu để chi chớ ? Cha chết rồi, ai biết công cho mình ? Mẹ cứ nói học nhờ tấm thân hoài, ghét quá !” Nghĩ đến đó, Hoà đâm chán nản, chỉ muốn buông xuôi.

Từ ngày cha Hoà chết mẹ nó đâm ra gắt gỏng, khó tính. Bà như mất tin tưởng ở trời phật, ở lòng người. Hừ ! Trời phật ! – Bà kêu lên trong bóng tối -- nếu có trời phật, sao trời phật lại để cho một người hiền lành, tốt bụng, tận tâm như chồng bà phải chết, chết tức tưởi giữa đường, giữa sá như vậy chớ ? Không, ông đã táng mạng vì tận tâm, vì tốt bụng : đáng lẽ bỏ mặc cái xe đó chạy thoát lấy thân như lời Miên giục, ông lại dùng dằng, do dự rồi sau cùng quay lại chỗ đang đánh nhau mà lái xe đi. Và súng đạn của đôi bên không cần biết đến việc làm của con người tốt bụng đó, đã nã vào người ông… và khi ông chết rồi, chủ xe đền công ông bằng cái áo quan gỗ tạp kèm theo một số tiền nho nhỏ, cho người mang đến chớ cũng không thèm bỏ công đến nhìn thử mặt mũi ông ra sao.

- Cái xe chỉ bể kính, hàng hoá còn nguyên vẹn – Miên hậm hực nói – mà họ keo kiết như vậy đó, bác thấy không ? Phải làm cho ra lẽ, chớ ?

- Thôi ! chẳng qua là cái số nó ngắn ngủi, ai ăn ở bất nhân phải có trời soi xét, mẹ con Mai đừng để bụng làm chi. Đừng bày đặt kiện thưa, tốn tiền vô ích. Rốt cuộc, thầy kiện họ ăn hết tiền giờ. Tao già chừng này tuổi đầu, tao đã qua cái cửa thầy cò, thầy kiện rồi, tao biết.

- Trời ơi ! – Miên kêu lên – bà Năm, bà nói con nghe không được. Như vậy thì chẳng lẽ không có pháp luật hay sao ? Người nghèo cứ chịu ức hiếp hoài sao ?

- Có chớ ! – Bà Năm cười chua chát – có pháp luật chớ, nhưng pháp luật là của kẻ có tiền, có thế lực, còn mình nghèo lại dốt nát thì đừng mong…

Câu đó vọng mồn một vào tai Hoà. À ! Ra vậy ? Pháp luật không ở về phía kẻ nghèo khổ ? Không ở về phía kẻ dốt nát ? Không ! Hoà không chịu như vậy. Hoà sẽ học giỏi, để không dốt nát và để làm cho pháp luật đứng về phía kẻ dốt nát, kẻ nghèo khổ mới được. Hoà sẽ nghèo ! Được ! Nhưng nghèo mà không khổ đâu (trừ cái khổ mất cha thì không thể tránh) Hoà sẽ cố học, thi lên, thi lên, thi lên…

Hoà tiêu tan cái hy vọng được chiếc xe đạp sau khi thi đậu rồi. Nhưng mà thôi, không có xe thì đi bộ, đã chết đâu ? Mất cái cột cái trong nhà (theo giọng bà Năm thường nói) thì quả sự chống đỡ có yếu đi, song rồi đây Hoà sẽ lớn lên thay vào chỗ đó. Hoà là con trai… Hoà mơ màng một ngày kia mình lớn lên, học hành đến nơi đến chốn (tuy không biết học đến chừng nào mới đến nơi đến chốn) mình sẽ đi làm đem tiền về cho mẹ, cho chị, cho em. Cái máy may của cha mua cho chị Mai lúc đó sẽ chỉ dùng để may áo quần cho mấy chị em và mẹ mà thôi. Chị Mai sẽ chẳng vất vả may áo cho người ngoài nữa. Hoà sẽ mua lụa tơ cho mẹ mặc. Mẹ với ông ngoại đều ưa lụa tơ tằm. Hoà, Hoà cũng ưa nữa.

Thầy giáo có dạy Hoà là sản phẩm của mình, mình phải quí chuộng. Mình nên dùng đồ nội hoá để nâng đỡ công kỹ nghệ nước nhà. Thầy dùng chữ gì đây này… chậc ! Chữ gì mình quên rồi, nhưng mà hay lắm (Hoà bóp trán suy nghĩ) à, à ! Vọng ngoại ! Phải ! Thầy nói : “Những kẻ vọng ngoại hay ưa chuộng thứ lạ, thứ sang, thứ đắt tiền, có khi không bền, không tốt mà cũng ham, những kẻ đó không có tinh thần dân tộc, các con đừng bắt chước”

Buồn cười quá, có đứa giơ tay đứng lên hỏi lại :

- Thưa thầy, con nghe mẹ con nói đồ nội hoá cái gì cũng xấu, cũng đắt tiền làm sao mình ưa chuộng được ?

Hoà chong mắt, lắng tai, trong lòng hồi hộp tợn : Hoà e thầy khó trả lời câu đó, Hoà không muốn thấy thầy mình lúng túng, mà câu hỏi thì quả là hắc búa. Hoà lo cho thầy. Thầy không chút ngập ngừng, giọng chẫm rãi, rành mạch :

- Mẹ con cũng có lý phần nào. Bởi xứ mình đang có chiến tranh, mọi nỗ lực đều thiên về quân sự, nhân công thiếu thốn, nguyên liệu thiếu thốn, máy móc tối tân không có cho nên hàng hoá sản xuất kém cả phẩm lẫn lượng. Giá vốn lại đắt, làm sao cạnh tranh nổi với sản phẩm nước ngoài ? Nhưng nếu mình biết yêu cái gì của mình, cứ chịu khó dùng, nâng đỡ sản phẩm nội hoá, rồi đây tình trạng sẽ được cải tiến dần dần thì sau này mình đâu có thua ai ?

Hoà thở phào một cái, nhẹ cả người. Thầy mình coi vậy chớ mà cũng quảng bác lắm ! Thiên hạ cứ tưởng rằng chỉ mấy thầy giáo Đại học, Trung học mới giỏi, còn thầy Tiểu học thì kiến thức lơ mơ lắm. Họ lầm to : bằng cớ là thầy Hoà biết rất nhiều điều hay ho, cao xa kia !

Ủa, mà thôi, lan man xa quá, mình đang nghĩ đến chuyện mua sắm cho mẹ mà ! Ờ ! Mua tơ tằm. Gì nữa đây ? Một cái nhà nhỏ ở chỗ nào mà xung quanh không có lầu cao, chỉ có nhiều cây cối và bóng mát. Có chỗ cho mẹ nuôi gà vịt. Hoà sẽ xui mẹ đừng nuôi heo, dơ lắm. Ngoài vườn, hai chị em sẽ trồng chuối, cam, mãng cầu, mận và chanh. Nếu có nhiều đất thì trồng thêm mía với khoai lang. E khó, đất ở đô thành mà làm gì có nhiều dữ vậy ? Hoà sẽ mua một cái xe gắn máy, ha ! Mình sẽ chở chị Mai với em Bé đi chơi vài tua. Mình sẽ có dịp làm cho chị Mai hết hồn, chị ấy phải van lạy mình, mình mới chậm lại, mình lao vun vút (sát lề tay mặt) cho chị chóng măt chơi.

Tiếc quá : thằng Tâm đi xa lắc, phải chi có nó ở đây, mình sẽ chở nó đi chơi, vui biết chừng nào ? Mà làm sao cha mẹ nó lại đi xa vậy kìa ? Tâm vẫn viết thư về cho mình kêu buồn, vì xứ tây lạnh lẽo và vì nhớ mình nữa. Được rồi, Tâm ! Nếu tao có tiền thế nào tao cũng đi thăm mày môt chuyến. Chắc còn lâu lắm, nhưng mà thế nào tao cũng đi thăm mày. Mày cứ tin tao !

Hoà mặc cho óc tưởng tượng phong phú của mình vẽ vời ra một tương lai rực rỡ, lấp lánh và cao vút, cao vút như quả bong bóng mầu mà nó thả vào một buổi sáng đẹp trời khi cha còn sống.

Thoắt cái, Hoà liên tưởng đến cha. Hoà nghe tưng tức và đau nhói trong lồng ngực. Mình mơ mộng quá rồi ! Không chắc gì mình đạt tới những điều đó. Mình sẽ đạt tới nếu còn cha. Bây giờ thì… Hoà nức lên khóc, mộng ước bị xoá nhoà đi trong nước mắt.

*

Năm rồi Hoà thi hỏng. Chắc phần lớn tại thầy đi lính. Ông thầy mới làm Hoà thêm thất vọng. Ông không chăm sóc đến học trò như thầy cũ của Hoà. Ông nói luôn miệng về ông. Ông nói lảm nhảm về thân phận con người, về nỗi buồn của tuổi trẻ và về sự phi lý của cuộc đời ! Ông lại nói đếnbuồn nôn (Mà Hoà hiểu là mửa : một hình thức nổi loạn của dạ dày khi nó không chấp nhận thức ăn) Ông còn nói đến hiện hữu (chắc như hồn người chết hiện lên ? Hoà ngầm đoán) Về các đào,tiếng này Hoà không hiểu nổi, sau nhờ lũ bạn kháo nhau, nó mới biết nghĩa là ý ông muốn chỉ đến những cô gái, mèo của ông. Ông còn nói nhiều nữa, miệng ông luôn phì phèo điếu thuốc lá và câu : “Chán bỏ xừ đi !” Ông thở dài sườn sượt mà rằng :

- Mẹ kiếp ! Ông đâu phải ưng làm cái nghề chó chết này ? Ông đâu có ưng ? Khốn khiếp ! Cơm áo trói buộc người ta như thế đấy ! Thà ông đi lính còn hơn. Chán bỏ xừ ! Chả trách tụi nó nổi loạn cũng phải.

Tụi nó là ai ? Nổi loạn ư ? Nổi cách nào ? Nổi làm chi ? Bọn học trò mù tịt về những lời lẽ huyênh hoang, cao siêu đó, chẳng hiểu ngô khoai gì tất nhưng mà rất mực khâm phục thầy giáo mới.

Không bao lâu, sau khi ông thay thầy giáo cũ, đứa nào cũng biết nói : “Chán bỏ xừ” và “Mẹ kiếp” hết. Nhưng Hoà thì không. Hoà không ưa, tiếng gì kỳ lạ quá, mất dạy quá. Phải, Hoà không ưa, đời thuở nhà ai nghề dạy học mà dám kêu là nghề chó chết bao giờ ? Cái mặt đó không đáng làm thầy giáo của Hoà đâu, trời ạ ! Khốn, nhưng Hoà đâu có quyền chọn lựa ?

Có điều đặc biệt này : là tuy ghét cay ông ta, cho ông ta là không đáng mặt làm thầy mình, Hoà lại lây -- từ hồi nào không biết – không phải lây tiếng nói chán của ông ta mà là chán thật sự. Hoà không muốn học nữa. Nó chỉ đến trường cho có lệ, để chơi, nghe nói tục, tán dóc, coi đánh lộn, gây gổ… Thì đã bảo : Hoà chán đời mà !

Hoà bắt đầu mơ mộng, bắt chước tụi bạn, la cà ngoài mấy rạp ciné. Có đồng nào, nó mua ngay những cuốn sách có bìa hoe hoét, sặc sỡ và những cái tên gớm ghiếc, anh chị như : “Quỉ Đói Hiện Về”, “Thanh Đăng so tài với Hiệp Sĩ Đầu Sắt”, “Batman đại chiến với Người Mèo”, “Mụ Béo tìm chồng”…

Hoà thấy tay chân mình đâm ngứa ngáy, khó chịu. Hoà quên phắt đi nhiều chuyện, cha, mẹ, thầy cũ, chị Mai, em Bé và cả thằng bạn thân nhất của nó : thằng Tâm, nó cũng quên luôn.

Nhưng Hoà ưa nhất là những truyện kiếm hiệp mà nó thuê ngoài tiệm. Hay quá !

Hoà quên tiệt, quên tất, làm sao nó nhớ được những thực tế cam go khi mà trong những trang kiếm hiệp không một nhân vật nào có liên hệ xa gần với gia đình, với xã hội xung quanh ? Trong đó toàn chuyện múa kiếm dưới trăng, phi thân trong bóng tối, các Đại Hiệp muốn đi đâu thì đi, muốn đến đâu thì đến, tha hồ tự do hành động không bị ràng buộc bởi một ước lệ phiền toái, bởi một kỷ luật nào ? Trong đó làm gì có chuyện giật mìn, nổ lốp, cầu sập, xe hư ? Trong đó các Nghĩa Muội Đại Huynh chẳng bao giờ phải thổi cơm, vo gạo, các Hành Khất Đại Hiệp không hề giặt áo, mua giày, không hề có biết đến rửa tay, tắm gội. Họ có biết đói là gì đâu ? Một viên linh dược đủ no và những bộ hồng y, hắc y hẳn là luôn luôn sạch sẽ ? Mặt mũi tay chân họ chắc luôn luôn trắng trẻo thơm tho nhờ bởi một phép mầu ? Không, người trong truyện sống thật là thanh nhàn, thoải mái. Họ không có một em Bé hay mè nheo, không có một chị gái khó tính như chị Hoà. Mải mê say, Hoà trở thành bẩn thỉu, lười biếng cho đến nỗi mẹ và chị đều kêu ca, nhiếc mắng, vẫn không bỏ được. Hoà không tĩnh tâm để làm gì hết, lúc nào cũng ngong ngóng chờ cái giây phút lật sách ra thôi. Than ôi ! Trường học, bài vở lại cũng là những thứ không có trong cuốn truyện : những nhân vật trong sách mới nứt mắt đã thông thái tuyệt vời, nào có ai phải đèn sách chi đâu ? Làm sao Hoà không ưa được, hả trời ?

Hoà bây giờ như thế đấy !

*

Một bữa kia đi học về, mới buông cặp, chưa kịp lục tìm cuốn kiếm hiệp thì Hoà bắt gặp vẻ hốt hoảng của chị mình. Mẹ đang rầu rĩ bên chị Mai. Hoà hơi rờn rợn, tự hỏi “có chuyện gì đây chắc ?” thì có tiếng Bé kêu :

- Anh Hoà ! Thầy giáo Lân bị thương đó, anh Hoà ! Mẹ đợi anh…

Hoà há tròn miệng như chữ o, hoang mang kinh hãi… chen hối hận. Kinh hãi vì sợ thầy chết, còn hối hận là vì tháng trước đây thầy viết thư cho nó mà nó không thèm trả lời thầy. Xin trời hiểu cho : Hoà vẫn kính quí thầy lắm chứ, vẫn thương nhớ lắm chứ, nhưng biết làm sao : xa mặt cách lòngmà ! Vả chăng, những lời khuyên bảo đâu có hấp dẫn, đâu có cám dỗ nó cho bằng những trang kiếm hiệp có nhiều nhân vật xuất quỷ nhập thần ?

Nó chán quá, hết muốn nghe, quên, hết muốn đọc những mệnh lệnh : con phải thế này, con nênthế nọ rồi.

Ai biểu thầy đi lính làm chi, bỏ người ta ở trường… cho đến nỗi này ?

Đứng lặng giây lâu, Hoà mới tỉnh táo, hỏi :

- Thầy bị thương nặng không ? Chị Mai ?

- Không biết, nghe em thầy qua nói lúc nãy, mẹ biểu chị đi chợ mua cam đặng chiều đem vô nhà thương cho thầy đó.

Hoà thở dài một cái, lấy làm hài lòng vì sự chu đáo của mẹ mình. Nó nhìn mẹ bằng hai mắt biết ơn.

- Mẹ đi với ai ?

- Con hay chị Mai cũng được.

- Mẹ đi với thằng Hoà, con phải ở nhà may cho xong mấy cái áo cho người ta chớ.

Hoà hơi ngần ngại một chút… chút xíu thôi.

Hoà không muốn gặp thầy ngay lúc này, nó có lỗi nhiều quá nên muốn tránh mặt, để mẹ đi một mình. Nhưng rồi lòng thương thầy mạnh hơn, lấn át được cái cảm giác xấu hổ, khó chịu, nên Hoà không cãi lại chị Mai.

*

Trời nắng dữ, đã hơn bốn giờ chiều rồi mà còn nắng. Mẹ Hoà che miệng ngáp dài, còn Hoà, nó mất cái kiên nhẫn bình tĩnh lúc đầu, khi mẹ nó tỏ ý phàn nàn sao chỗ này khó khăn, bắt bẻ, hoạnh hoẹ đủ thứ không cho vô thăm liền ; họ đòi xem thẻ căn cước, gạn hỏi người nằm trong bệnh viện tên gì, cấp bực nào, liên hệ với mẹ con Hoà ra sao v.v… Lúc đó, Hoà tỏ ra hiểu biết, nói với mẹ :

- Luật người ta vậy đó, mình phải chịu khó…

- Luật, luật con khỉ ! Bộ sợ người ta vô ăn cắp hay sao ? Mỗi chút mỗi luật, biết vầy tao để cho hai chị em mày đi, mệt lắm !

- Ý, sao được mẹ, thăm thầy mà tụi con đi…

Mẹ Hoà tức thì lừ mắt một cái :

- Thầy mày chớ thầy mẹ mày chắc ?

Rồi, mẹ đã nổi nóng lên rồi. Hoà nghĩ thầm. Giá lúc trước là Hoà đã cãi lại song bây giờ Hoà biết rõ cái nguyên do làm mẹ bẳn tính : tại cha mình chết ! Cây cột cái trong nhà đổ xuống mà lại ! Không ! Hoà không trách mẹ đâu. Hoà thương mẹ quá : mẹ gầy nhom, má hóp, mắt sâu, già đi trông thấy. Hoà thở dài, nao nao trong lòng. Chao ơi ! Mới ngày nào đây… cách nhau có vài phân ván mỏng, một lớp đất dày mà hoá ra đời đời cách biệt !

“Xa cách nhau muôn trùng… “ trong tiềm thức Hoà vọng lại giọng hát, cái giọng hát mới u buồn, thấm thía làm sao ? Xa cách muôn trùng ! Không bao giờ nữa, Hoà còn cái hy vọng mong manh là cha mình sẽ lừng lững trở về trong một lúc bất ngờ nhất như thể Vân Tiên trong truyện, như lòng mơ tưởng buổi đầu khi ông vừa nằm xuống nhưng chưa nằm yên vào lòng đất lạnh. Hoà chua chát nghĩ : cái thứ chuyện đời xưa làm gì có trong thời đại văn minh này nữa mà mong ?

Mắt cay sè… Hoà khóc ư ? Không ! Hoà không khóc, nó chỉ buồn thôi. Buồn nặng trĩu… Trong một thoáng, Hoà bỗng như ngửi được cả mùi rượu rửa xác cha ngày trước, cả mùi hương gây gấy nồng nồng toả khắp gian phòng nhỏ. Như thấy lại nét u sầu của bà Năm, của mẹ, cái nhìn thương cảm của thầy giáo, buồn bã của anh Miên. Hoà thấy cả đôi đèn sáp trắng đặt trên cái kệ giả thay bàn thờ kê trước đầu áo quan cha, đôi đèn sáp lớn, được đốt và thay luôn mỗi lần sắp cháy hết. Hoà biết thế vì trọn đêm ấy Hoà nằm ngoài cái ghế vải trước sân nhà xác, cứ mỗi lần tỉnh giấc nhìn vào thì thấy đôi đèn soi sáng một vùng, ánh sáng như muốn xoi thủng cái tăm tối, u ám bao quanh áo quan và từng giọt, từng giọt sáp nóng rưng rưng chảy dài xuống quanh cây đèn y như những giọt nước mắt, liên tục không ngừng. Hình ảnh đó làm Hoà được vững tâm, được an ủi phần nào : cây đèn sáp cũng biết cảm động, xót thương cha nó !

Phải ! Hoà chỉ cay cay ở mắt, nghèn nghẹn ở cổ thôi, chứ không khóc được. Vì từ khi nó lầm lũi theo sau áo quan cha đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng trong lòng đất lạnh nó đã khóc quá nhiều rồi. Nó đã nao nức, thắc thỏm biết bao nhiêu buổi sáng, bao nhiêu buổi chiều, khi trong bữa ăn, khi trên bàn học, có khi mơ mơ màng màng nửa tỉnh, nửa mê, có khi trong hoàng hôn, bóng nó chập choạng, nhập nhoè cùng bóng chiều đổ xuống… Hoà đã nín thở, thần kinh căng thẳng theo dõi từng tiếng động nhỏ, từng tiếng gió lao xao trên ngọn cây cao, lắng tai canh chừng từng tiếng… khi bước chân ai từ đâu vô tình lọt đến tai Hoà.

Hoà đã mỏi mòn vì ngóng đợi. Hoà vẫn nghẹn thở mỗi lần tưởng tượng đến giây phút ấy, giây phút ông sừng sững bước vào nhà. Chính Hoà phát giác ra ông còn sống cũng như nó đã chỉ cho mẹ thấy anh Miên, người mang tin ông chết đến nhà bữa chiều hôm nào vậy. Bây giờ đây, nó không còn muốn lừa dối chính mình mãi nữa. Ảo vọng kéo dài quá nhiều ngày đã trở thành vô vọng. Hoà biết rằng không bao giờ cha Hoà còn có thể trở về. Không bao giờ ! Ngay cả trong giấc mơ Hoà cũng không hề được thấy mặt ông. Ông đã đi xa, xa lắm. Mà tại sao trong mơ ông cũng không chịu trở về ? Hay là cha Hoà giận Hoà đã ham chơi hơn học mà không thèm nhìn mặt nữa ? Cha ơi ! Con có lỗi quá… không ! Không phải tại ai cả, con không đổ tại cha chết, tại thầy đi lính nữa đâu. Mọi chuyện đều tại con. Cha không muốn chết cũng như thầy vẫn muốn gần con lắm.

Đã lâu lắm, không bao giờ Hoà nghĩ đến cha, không hề nhớ đến những ngày xa cũ, sao bỗng nhiên chiều nay Hoà lại nhớ rành rành ? Và hối hận dày vò lòng nó ? Phải chăng vì khung cảnh bệnh viện gợi nhớ chuyện bi thảm ngày nào ?

Hoà quay đi, không dám nhìn mẹ, mắt đăm đăm nhìn vệt nắng dài chiếu chếch lên thềm nhà gác của bệnh viện, thuận chân nó mon men về phía bãi cỏ xanh gần đó.

Thỉnh thoảng, một chiếc xe Jeep có chữ thập hồng lao vút tới, nhả từng lọn khói phía sau. Bên trên tuy đã được buông “rèm” phủ kín, đôi khi Hoà nom thấy thò ra đôi giày lính chúc mũi xuống sàn xe giữa khoảng không, đung đưa, quờ quạng. Hoà nghe gây gấy lạnh, trí khôn của nó báo cho nó biết rằng người mang giày đã tắt thở rồi ! Chao ơi ! Chuyện ngoài đời thật bi thảm, khác xa trong sách !

Một lát sau, có tiếng kêu vói ra từ thềm nhà gác :

- Mẹ con bà kia ! Tới giờ thăm bịnh đó, vô đi !

Hoà hấp tấp chạy lại, đỡ giỏ cam trên tay mẹ và hai mẹ con cùng sóng bước bên nhau. Gió nổi lên xào xạc trong chòm cây trước mặt. Hoà nhẹ cả người.

*

Hai mẹ con loanh quanh hồi lâu. Bệnh viện này sao mà rộng quá. Trại nào cũng giống trại nào tìm đến thở dốc mà chẳng thấy chỗ muốn tìm. Khu giải phẫu, khu nội thương, khu hồi sinh, khu ngoại thương v.v… rồi lại chia ra nội thương 1, nội thương 2… ngoại thương 4, ngoại thương 5, ngoại thương A, ngoại thương B gì gì đó nữa không kể xiết, làm Hoà muốn phát khùng lên. Nếu không phải là vào thăm thầy Lân, thầy giáo mà nó quí mến chắc Hoà đã xúi mẹ trở về quách cho xong.

Mẹ Hoà dừng chân, kéo vạt áo lau mồ hôi đang bò ròng ròng xuống cổ, xuống trán, cao giọng hỏi con :

- Con có chắc thầy nằm khu ngoại thương không ?

- Chắc chớ, mẹ ! Thầy con đâu có đau bịnh gì ? Bị thương tức là ngoại thương đó, con biết mà.

Mẹ Hoà nhìn con bằng cái nhìn tin tưởng, gần như thán phục sự hiểu biết rộng rãi của con, bà nói :

- Vậy thì cứ chịu khó tìm, thế nào cũng tìm được. Đưa mẹ xách cho kẻo mỏi tay.

Hoà trao giỏ cam lại cho mẹ để rảnh tay, dễ tìm chỗ thầy nằm. Hoà đề nghị :

- Mẹ ngồi xuống kia nghỉ một chút. Để con chạy tìm một mình, chừng nào có con kêu mẹ chớ mẹ đi theo con mệt lắm.

Mẹ Hoà bằng lòng liền. Bà ngồi xuống một cái ghế bằng xi măng, dõi mắt theo bóng con tít đằng xa : Hoà nhanh nhẹn như một con sóc nhỏ trên cành cây, chỗ nào nó cũng thậm thọt chui vào rồi chỉ trong một nháy mắt là chui ra. Mỗi bận như thế, Hoà lại quay về hướng mẹ ngồi, lắc đầu ra hiệu rằng chưa tìm thấy và chỉ tay về phía trước, chỗ nó sắp vô tìm nữa.

Mẹ nó ngồi yên, lặng lẽ nhìn quanh, nhưng kỳ thực bà không để ý đến một cái gì cả, vì bà mải suy nghĩ bâng quơ… Cuộc đời kỳ quái thực, nhiều cái lạ lùng thực. Ai có ngờ được vậy hay không ? Một người ghét sống nơi thành phố như chồng bà mà lại phải sống nơi thành phố. Một người hiền lành, tốt bụng như chồng bà mà lại chết, chết tức tưởi không thấy mặt vợ con, không có một lời trăn trối cuối cùng, không một người thân thuộc bên cạnh để vuốt mắt cho… Một người làm cái nghề đáng quí, đáng trọng nhất trong các nghề -- nghề dạy học – thì lại phải bỏ học trò mà đi cầm súng và bây giờ bị thương, không biết tính mệnh ra sao ? cả bà nữa, cũng là một sự lạ.

Hồi chồng mới chết, bà tưởng mình không thể nào sống thiếu ông, nhưng bây giờ bà hiểu rằng người ta không dễ chết như mình nghĩ. Mất một người bạn đời cùng mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ thì quả là một sự mất mát to lớn khó bù đắp và không mong gì thay thế được. Nhưng mà người còn lại phải đảm trách lấy bổn phận, không thể nằm khóc mà xong. Phải biết gạt nước mắt, phải lo cho con đủ cơm no, áo ấm. Bây giờ đây tuy không nguôi ngoai hẳn song bà chỉ còn khóc thầm khóc vụng trong đêm. Trong đêm, bà mới rảnh để ôn lại, để nhớ đến chồng. Tội nghiệp ông, cả đời vất vả, lúc nào cũng cho cuộc sống nơi đô thị là tạm bợ, sống qua ngày, chờ đợi lúc yên ổn để được trở về quê cũ cùng với vườn rau, đám ruộng. Chưa đạt được ước vọng đơn giản đó ông đã nằm xuống, vĩnh viễn xa lìa ruộng đất, ruộng đất mà ông nặng lòng yêu như đối với vợ con.

Nhờ ơn trên thế nào rồi một ngày sắp tới đây bà cũng cố đem ông về quê bà mới yên lòng. Phải ! Bà không thể để ông nằm lại một mình với những người xa lạ xung quanh. Người chết cũng phải gần họ hàng, thân thuộc của mình chứ ? Bà hơi lúng túng : mang ông về đâu ? Quê mình hay quê ông ? Mà thôi, hẳn khoan nghĩ đến, sẽ bàn cùng lũ nhỏ sau. Mà sao mình lại lẩn thẩn như vậy ? Quê nào chả là quê ? Ngày còn sống ông không từng nói đó hay sao : đất quê nào mà cây trái không ngon, ruộng vườn không xanh tốt, người quê nào lại không cởi mở, thật thà ? Hơn nhau là ở cái tài canh tác chứ ? Là ở sự đối xử với nhau chứ ? Phải rồi…

Mông lung suy nghĩ, mẹ Hoà không để ý đến con trai, nên Hoà ra hiệu mãi mà mẹ không thấy, nó phải chạy lại. Một tay đưa lên ngực nén nhịp thở hào hển, một tay xoa xoa sau lưng cho mồ hôi thấm vào áo, Hoà nói như reo lên :

- Con tìm ra rồi, mau mẹ !

Mẹ Hoà bật dậy, tay khư khư cái giỏ cam, nối bước theo sát lưng con. Ngoằn ngoèo quanh lộn cả đoạn dài nữa, hai mẹ con đặt chân lên bậc thềm một trại trong vô số trại thương binh, cất đều theo một kiểu, vuông vuông dài dài y như những cái bao diêm sắp quanh trên cái bàn trải khăn xanh là cái thảm cỏ và một ít cây cối vây quanh khu bệnh viện.

Hai mẹ con vào phòng rồi mà mẹ Hoà vẫn không thấy bóng dáng thầy Lân. Bà hơi nghi ngờ sự hiểu biết của con, nóng nảy hỏi :

- Đâu ? Thầy đâu ? Sao con nói…

- Thì con thấy tên thầy ghi kia rõ ràng mà. Mẹ để tìm chớ, để người ta nằm, nói to dữ vậy ?

Phòng này rộng, vừa rộng vừa sâu. Chắc là phòng dành riêng cho những thương binh nặng ? Hoà thoáng rùng mình khi nghĩ thế. Mùi thuốc, mùi hôi, mùi… nhà thương xông tận mũi Hoà. Bốn dãy dài giường sắt trắng, đặt thẳng song song nhau và trên mỗi giường đều có bệnh nhân.

Hình như họ đều ngủ cả. Hoà thoáng nhớ khi cha còn sống, ông thường nói : “Nữa tao mà có đau ốm thì mẹ con bay đừng đem tao vô nhà thương, tao ớn lắm. Thà tao chết ở nhà. Trong đó hôi không chịu nổi !” Thật ông nói đúng quá. Hoà cũng vậy, Hoà không chịu nổi. Nó muốn tháo lui ngay, song lòng thương thầy mạnh hơn nên nó phải cố gắng.

Quanh lộn mãi vẫn không tìm ra thầy, Hoà lại phải chịu khó cúi xuống nhìn tận mặt từng người một -- thật là một việc quá sức đối với Hoà – Có người thức giấc lầu bầu chửi thề nhưng Hoà vẫn phải nhỏ nhẹ xin lỗi và nói cái lý do tại sao mình vô đây làm phiền họ.

Dù sao, Hoà không phiền trách họ, nom người nào cũng ốm yếu, làm sao họ có thể vui vẻ nổi ?

Được một lát, Hoà đâm nản, vì đã đi suốt cả hai dãy giường mà không tìm được thầy mình. Có một bận Hoà xuýt reo lên vì cái anh tre trẻ trong góc phòng sao mà giống thầy thế, nhất là trông nghiêng, song khi nhìn thật kỹ, thật gần, Hoà biết mình lầm, anh ta quá trẻ và nét mặt buồn rầu không giống thầy mình chút nào. Không ! Thầy giáo của Hoà vui vẻ, tươi tỉnh hơn nhiều, còn anh này cái mặt cau có lắm.

Trong lúc Hoà lăng quăng tìm kiếm trong này thì mẹ Hoà hãi sợ, dừng lại ngoài kia, bà không dám làm như Hoà. Hoà nhìn sâu bên trong : ánh sáng từ hai cánh cửa lưới mới gắn soi rõ mặt từng người, không một ai là thầy Lân cả.

Hoà quay ra, nửa mừng nửa lo : mừng vì thầy không có trong số những người bị thương nặng, lo vì không hiểu thầy đâu.

Chợt thấy người mang cơm vào cho bệnh nhân, Hoà chận lại hỏi liền. Ông ta dừng chân, cắn môi suy nghĩ một lát, rồi hỏi lại :

- Mà cậu tìm Lân nào ? Đây có hai Lân, một Lân mù mắt, cụt tay, một Lân…

Hoà ù cả hai tai, không nghe gì nữa. Trời ơi ! Nếu mà thầy mình mù mắt, cụt tay thì… khổ biết bao nhiêu ? Thà chết như cha còn hơn… Bủn rủn cả tay chân, Hoà đứng lặng không nhích đi được một phân nào. Người kia giục :

- Đó, cứ qua phòng bên kia, cả hai đều nằm bển. Thế nào cũng có…

Hoà đã trấn tỉnh lại. Nó hỏi :

- Dạ, sao tên thì ở bên này mà…

- À ! Tại người ta chưa kịp đổi lại. Ở đây nhiều việc lắm, người ta không rảnh rang như nhà cậu đâu.

Hoà vội vàng cảm ơn ông ta rồi đi theo hướng ông ta chỉ, không quên kéo mẹ theo mình.

Trại này coi bộ khá hơn : Hoà khỏi phải tránh né những cuộn băng, những tấm bông bẩn vương vãi dưới mỗi giường. Bệnh nhân coi khoẻ hơn. Có anh nằm ngửa hát nghêu ngao, bên cạnh có một người đàn bà -- chắc là vợ -- đang cắm cúi pha sữa cho. Một chân duỗi thẳng, một chân co. Bên chân co mất hẳn đi một khúc từ ống quyển trở xuống, còn lại một khúc ngắn non tấc tây từ đầu gối trở xuống. Khúc còn lại được băng kín, trắng tinh, vuông vức y như phần đầu của chiếc chả giò. Họ không cột mà kẹp đầu mối bằng bốn cái kẹp sắt mỏng, sáng loáng, giữa thẳng, hai đầu kẹp ăn sâu vào cuộn băng, nom gọn và rất khéo. Anh ta đung đưa cái phần một tấc còn lại một cách đều đặn nom kỳ quái quá làm Hoà vừa sợ lại vừa muốn bật cười.

Một anh khác nằm thẳng, hai ống chân như một đôi đũa vừa so xong : thẳng băng, đều đặn, đều cho đến nỗi cả hai khúc bị mất cũng đều tăm tắp ! Cả hai ống chân đều trắng lốp, sạch sẽ, chắc cũng do một bàn tay khéo léo, lành nghề của người y sĩ đã băng cho anh bên giường kia ? Anh ta cũng mặc áo xanh của bệnh viện nhưng lại không mặc quần cùng mầu mà lại mặc cái quần đùi có sọc xanh. Sọc xanh ? Cái quần bỗng nhắc Hoà nhớ đến bạn mình, Tâm đang nóng lòng chờ đợi lá thư mà Hoà đã hẹn lần không chịu viết.

Trên đầu mỗi giường bệnh đều có treo một cái giỏ sắt đựng các thức lặt vặt cần dùng và quà cáp của những kẻ đến thăm. Vài tờ báo, cuốn sách, tạp chí vứt bừa ra đâu đó : trên giường, trong giỏ, trên cái kệ nhỏ kê sát bên giường.

Hoà vừa để ý tìm giường thầy Lân vừa ngó ngoái lại phía sau, mỗi lần quay lại Hoà đều trông thấy cái chân cụt tận đầu gối của anh thương binh kia ngo ngoe phần còn lại từ xa nom như một cái đầu của con vật lạ.

Chợt Hoà kêu lên một tiếng, chùn chân lại : nó vừa chạm phải một bộ mặt hết sức gớm ghê : một bộ mặt nom không còn hình dạng rõ ràng, một bên mắt sâu hoắm và cái mũi sụp xuống làm khuôn mặt bằng phẳng như cái dĩa, môi trên và môi dưới đều sưng vù. Má và trán nám đen, sưng tấy lên, ri rỉ nước vàng.

Tiếng kêu của Hoà bật lên trong lúc thảng thốt, không thành lời gì rõ rệt nhưng cũng đủ làm bệnh nhân trên các giường giật mình quay lại phía Hoà. Vài tiếng chửi thề nổi lên cùng một lượt với tiếng rên nho nhỏ. Trong lúc Hoà đang bối rối khổ sở chưa biết làm cách nào để thoát khỏi tình trạng khó chịu này thì ông già đưa cơm cho bệnh nhân trờ tới, ông ta cao giọng nói với Hoà :

- Đó, ông Lân đó, nhìn ra chưa ? Đúng không ?

Hoà nghẹn cứng cổ, không trả lời ông ta được câu nào. Nó bàng hoàng, nhắm chặt hai mắt lại, cố trấn tỉnh nhưng tinh thần tán loạn. Thầy Lân đây ? Làm sao nó biết chắc được ? Có lẽ mặt thầy bị biến dạng vì thương tích… Tai Hoà như văng vẳng bốn tiếng “mù mắt cụt tay” Hoà lại mở mắt ra nhìn xuống phần thân thể nạn nhân trước mặt. Phải : ông ta cụt tay thật. Hoà hoàn toàn tuyệt vọng, nó vội lùi ra. Bỗng trí khôn của Hoà nhắc nó là còn một người trùng tên với thầy nó nữa, chắc gì… ? Lần này mắt Hoà chạm phải bốn chữ “trọng nghĩa khinh tài” bằng mực xanh xăm trên cánh tay lành của nạn nhân. Hoà thở phào một cái mừng quá đỗi nhưng cố giữ không kêu lên, nó không muốn nghe chửi thề như lúc nãy. Hoà vững lòng quá !

- Hoà ! Lại đây ! Con tìm thầy hẳn ?

Nghe tiếng kêu, Hoà quay lại. Nó mừng đến ríu cả lưỡi khi nhận ra khuôn mặt quen thuộc cùng nụ cười hiền hậu, ấm áp của thầy Lân. Hoà muốn kêu mẹ mà nó không kêu được, thầy Lân cũng mừng không kém nhưng thầy tỉnh táo hơn :

- Con đi một mình hay đi với ai ?

Bấy giờ, Hoà nức lên khóc, chạy lại bên thầy toan sà vào lòng thầy như năm ngoái hôm chôn cha vậy, song xung quanh đông quá và ai cũng như chú ý đến nó nên Hoà cố sức ngăn giữ tình cảm mình lại, không cho bộc lộ quá rõ ràng.

Nó cắn môi, chớp mau vài cái cho nước mắt thoát ra, rụng xuống. Nó lẳng lặng chỉ tay ra cửa để thầy hiểu rằng có mẹ nó cùng đi. Thầy Lân nhìn theo tay Hoà chỉ, thì vừa vặn mẹ Hoà lấp ló ngoài cửa nhìn vô. Bà kêu lên “Trời ơi !” hai tiếng rồi đứng sững giây lâu. Nụ cười trên môi bà méo xệch như mếu. Hoà nhanh nhẩu chạy ra đỡ giỏ cam trên tay mẹ.

- Cảm ơn bác Hai. Trời ơi ! Xa xôi nắng nôi như vầy mà bác chịu khó tìm vô thăm là quí lắm rồi, còn bày đặt mua sắm làm chi nữa ?

Thầy nhìn giỏ cam trên tay học trò mình, nói. Mẹ Hoà đã qua cơn xúc động lúc đầu, giọng bà nghèn nghẹn :

- Thưa thầy, nghe cô Tư qua cho hay là thầy bị… tôi lật đật… dạ, thưa thầy đâu có là bao nhiêu? Cái ơn của thầy…

Chắc là mẹ Hoà muốn nhắc đến công thầy dạy dỗ Hoà ? Hay là bà muốn nói đến chuyện thầy chạy tới chạy lui, tất tả xin những thứ giấy tờ, phép tắc khi cha Hoà chết ? Hoà không biết được vì tới đó, mẹ Hoà ngừng lại, khóc ròng.

- Kìa bác Hai ! Ơn nghĩa chi đâu mà mỗi lần thấy tôi là bác nhắc hoài ? Giúp đỡ nhau là thường chớ.

Và như để câu chuyện được hồn nhiên, khỏi vướng víu vào vụ ơn nghĩa, thầy Lân quay sang hỏi Hoà :

- Sao ? Năm nay con đậu chớ ?

Hoà đứng lặng, đầu cúi gầm xuống. Trời ơi ! Thầy mà biết thì sẽ… ra sao ? Mẹ Hoà nghe thầy hỏi, liền chộp lấy, kể lể -- vì còn có ai đáng cho bà kể lể đâu ? Ai là người quan tâm đến chuyện đậu hỏng của con bà hơn là thầy Lân nữa ?

- Thôi, thầy ơi ! Nó bây giờ không như hồi thầy ở nhà đâu. Nó hư rồi : Tôi đã nói cả trăm lần là phải rán học đặng nữa nhờ tấm thân mà nó có thèm nghe đâu ? Con cái bây giờ… tôi buồn quá, thầy ơi ! Phần thì…

Hoà ngượng quá, mẹ nó sao mà kỳ hết sức, ở đâu cũng nói vung lên như ở nhà mình, không sợ người ta chê cười gì hết.

Một người nằm cạnh giường thầy Lân, chõ sang, hỏi :

- Ê, học trò toa đấy hả ?

- Phải, học trò tôi, anh ạ !

- Sướng nhỉ ? Đời bây giờ mà còn có người nhớ đến công ơn sư phụ…

Và anh ta phá lên cười, cười hô hố, hô hố nghe phát ghét. Hoà càng tức tợn. Nó bỏ mặc mẹ chuyện trò, lảng ra hiên đứng. Ngoài hiên cũng có bệnh nhân nằm. Một người đang duỗi dài, trên ngực một cái khay nhôm chia ra nhiều ngăn, ngăn lớn nhất đựng cơm, ngăn vừa vừa đựng canh, vài ngăn nhỏ hơn nữa thì đựng thức ăn mặn khác. Để trên ngực làm sao thở được ? Hoà nghĩ bụng. Song khi nhìn kỹ lại, Hoà biết rằng từ vai xuống gần đến bụng anh ta bị bó trong một khuôn bột cứng còng. Cạnh giường anh này, có anh nữa đang loay hoay một cách vô vọng, không thể nào với tới chai nước phía trên đầu. Không kịp nghĩ ngợi lâu hơn, Hoà nhanh chân lại gần đỡ lấy cái ca bằng nhựa mầu trong tay anh ta, rót nước vào đó, đưa anh.

Bệnh nhân nhìn Hoà, khe khẽ hai tiếng cảm ơn một cách mệt nhọc, đón ca nước Hoà đưa cho, xoay mình lại một chút và -- lạ lùng hết sức – anh ta không uống như Hoà tưởng, chỉ nhúng tay vào đó rồi xoa lên khắp mặt mình. Tội nghiệp… tội nghiệp họ quá ! Họ khổ quá !...

Bỗng Hoà chợt nhớ mình chưa kịp quan sát coi thầy bị thương ở chỗ nào, chắc là nhẹ ? Bậy quá, lúc đầu thì mừng quá không để ý, kế tới mẹ nói oang oang lên làm Hoà tức, quên luôn. Ấy, Hoà có tính xấu thế đấy : hễ tức mình là không nhớ gì hết. Phải vô coi mới được.

Hoà thấy thầy đang cởi áo cho mẹ coi vết thương. Chẳng biết sâu cạn ra sao, chỉ thấy một miếng ga lớn bằng cả bàn tay xoè ra, có độn bông gòn ở giữa được đắp ngay ngắn trên vai thầy, chung quanh dán kín bằng băng keo trông như cái khuôn hình. Một vết thương khác phía dưới sườn, không dán băng keo mà băng quanh bằng vải ga mỏng quanh lưng, nhìn máu bầm thấm ra ngoài, Hoà đoán biết là vết thương không nặng lắm.

Mẹ Hoà xuýt xoa khe khẽ :

- Lạy ơn trên che chở… may quá, không thôi…

- Phải, may quá, bác Hai à !

Thầy Lân nói và gài cúc áo lại như cũ. Mẹ Hoà nhác thấy con, bà du nó lại bên thầy :

- Lại thăm thầy đi chớ, Hoà ? Ở nhà thì đòi vô, giờ gặp thầy lại chạy ra ngoài đó làm chi ? Thằng kỳ hết sức là kỳ.

Thầy Lân đỡ lời :

- Nó không kỳ đâu, chắc vì bác kể tội nó nên nó… vậy đó. Không sao, tôi biết nó, nó không phải là đứa hư đâu, bác Hai !

Hoà nghe mà mát cả ruột gan. Phải, Hoà đâu có đến đỗi… hư ? Mẹ mình ưa nói quá lên ! Hoà ao ước thầy mình lành, khỏi phải ra mặt trận nữa mà được trở về trường dạy nó, để ông thầy mới đi lính, phải cách hơn. Nhưng Hoà không tiện nói ra ý mình. Nó chỉ hỏi :

- Chừng thầy lành, thầy được về phải không thầy ?

- Đâu dễ vậy ? Thầy có bị thương nặng đến tàn phế đâu ? Thầy còn đủ chân tay mà ! Chừng nào…

- Thôi, ai mong chi chuyện đó. Thầy nói vậy không nên.

Mẹ Hoà ngắt lời thầy Lân. Còn Hoà, tuy không nghe hết câu nói song nó cũng hiểu rồi. Hoà cũng như mẹ, không mong chuyện đó, cứ nghĩ đến là ngán rồi. Thầy Lân lại cười ;

- Phải, ai mong chuyện đó, nhưng là tôi nói ví dụ mà, bác Hai.

- Cũng không nên ví dụ như vậy đâu.

Hoà nhìn kỹ thầy mình. So với những người khác, thầy thuộc hạng nhẹ. Da thầy không xanh tái mấy, tuy thầy quả có gầy nhiều. Thầy vẫn vui vẻ, dù có kém đi một chút. Mắt thầy vẫn sáng, vẫn cái nhìn linh hoạt cũ, cái nhìn đủ sức làm ấm lòng hoà mỗi lần có chuyện bị mẹ rầy oan ức ở nhà.

Hoà buồn rầu nghĩ rằng những người thương yêu và hiểu mình như cha, như thầy đều lần lượt xa mình. Mình phải gần đàn bà con gái như mẹ, như chị Mai… đàn bà con gái cũng tốt, cũng thương yêu nhưng mà họ… hơi bất công. Khi họ tức chuyện gì họ có thể làm khổ lây người khác, nếungười khác đây nhỏ hơn và dưới quyền họ như Hoà ! Bằng cớ là hễ chị Mai mà may hư, cắt hỏng cái áo là ngày đó thế nào chị cũng thấy Hoà rất dễ đánh đòn. Còn mẹ : cái chốt cửa gãy, cái bóng đèn hư, cái máy kẹt chỉ mà Hoà vô ý lớ quớ gần đó thì Hoà có thể bị đòn như bỡn !

- Hoà, thưa thầy rồi về kẻo tối con !

Hoà vội vàng làm theo lời mẹ. Chục cam đã được mẹ sắp vô trong giỏ trên đầu giường, nom vàng tươi, óng ả, ngon cả mắt. Hoà cầm cái giỏ không cùng mẹ đi ra.

Gió phe phẩy trên mấy cành cây. Cỏ xanh mướt dưới chân hai mẹ con.

Nắng chiều sắp tàn, không khí dịu lại. Trời quang và mát. Mây trắng nhẹ nhàng trôi về một góc trời, góc mà mẹ Hoà vẫn chỉ tay về, nói “Quê mình ở phía đó” bằng cái giọng bùi ngùi, luyến tiếc.

______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V