Khi đoàn quân xuất hiện, hàng một, người nọ cách người kia dăm bước, đi dài như con rắn trên quãng đường rầy bên kia đường, ấy cũng là lúc trống tan học trường tôi vang lên.
Những tiếng thùng thùng nghe quen thuộc và đầm ấm làm sao! Các thầy, các cô thì như đập ngăn, tiếng trống thì như giải phóng. Chúng tôi ào ra khỏi lớp. Như thác lũ. Như mưa điên. Có lẽ còn hơn ong vỡ tổ gấp bội. Nhất là lớp tôi, lớp có nhiều học sinh ngụ chung một khu xóm xa trường đến hơn ba cây số.
Tôi đợi em tôi, thằng Nghiêm, nơi cổng trường. Rồi hai chị em tôi mới nối gót các bạn đi bộ về nhà. Bên kia đường, “con rắn” lính của trung tâm huấn luyện vẫn trườn đi. Bên này đường, “con rắn” học trò chúng tôi cũng trườn đi. Nhưng thay vì hàng lối, thứ tự... thì chúng tôi đứa đi một mình, đứa cặp kè với bạn, đứa gặp ống lon giơ chân đá, đứa cười to, đứa chuyện vãn, đôi khi, dạt ra đến phần ba đường cái. Xe cộ trên quãng đường này tương đối ít. Thật hiếm thấy một chiếc xe vận tải to tướng, cồng kềnh vượt qua, thẳng đường đi Quảng Ngãi. Thỉnh thoảng, một chiếc xe hơi “đầu cụt” - chúng tôi gọi loại xe chuyên chở hành khách mới xuất hiện này như thế - với khách ngồi đầy nhóc, với quang gánh, thúng mẹt phía sau hoặc trên mui, từ Phú Cát chạy về Quy Nhơn hay ngược lại. Xe lôi, với những bác, những chú tài xế ngồi trên nệm chiếc gắn máy, thì tương đối nhiều. Nhưng chẳng hề gì, các bác, các chú ấy nhất định phải tránh chúng tôi rồi. Bằng những hồi còi inh ỏi. Hay bằng những câu la lối: “Xích dzô! Xích dzô!”. Đáp lại, chúng tôi dạt vào lề đường. Có khi một đứa nào đó gọi với theo: “Cho quá giang đi chú!”. Rồi cười lên khanh khách, nhìn theo bóng chiếc xe lôi nhỏ dần trên quốc lộ.
Chiều nay, trời bỗng dưng sập tối vì một đám mây lớn phía trời tây. Hướng phi trường, góc trời lóe sáng hẳn, ửng đỏ. Phía trung tâm huấn luyện, những hồi còi tập họp đã vang lên từng chập.
Đi bên tôi, Nghiêm có vẻ buồn. Tôi hỏi:
- Bữa nay có chuyện chi vui không Nghiêm?
Nghiêm giật mình:
- Chi vậy chị?
Em tôi như đang nghĩ ngợi gì đó thì phải. Thằng bé lên chín, nhưng vẫn còn khờ như mới lên bảy, lên tám, vói cái đầu hớt ngắn và cái miệng hay cười với hai bờ môi đỏ như son - nét tướng của những người quý phái. Nó nhích cái cặp da cũ, sờn rách phía sau lưng, hai tay ghịt chặt, quay nhìn tôi, đợi nghe lại câu hỏi. Tôi bỗng cười vu vơ:
- Mày đang nghĩ gì đó Nghiêm?
Nghiêm ấp úng:
- ... Đâu có...
- Chứ sao tao hỏi, mày không nghe?
- Tại... tại em không để ý...
- Mà thôi... Bộ bữa này trong lớp có chuyện gì sao mà coi mày buồn dữ vậy?
Nghiêm lặng thinh. Em tôi bước hơi chậm lại, đầu nghiêng nghiêng, mắt hướng về phía khu xóm xa xa. Tôi gặng hỏi:
- Sao? Có chuyện chi vậy?
Một lúc lâu im lặng, một lúc lâu với những bước chân nặng nề trên đường, em tôi mới nói, nhưng không phải để trả lời câu hỏi của tôi. Nghiêm nói:
- Sao ba đi lâu quá, chị hỉ?
Chỉ bấy nhiêu, tôi đã hiểu vì sao. Tội nghiệp em tôi. Sao ba đi lâu quá? Không biết lần này là lần thứ mấy chục, mấy trăm, em tôi hỏi câu đó. Bỗng dưng tôi thấy ngại ngùng không thốt nổi câu trả lời “Rồi mai mốt ba về” như mọi khi. Tôi buồn giọng:
- Ờ... Không biết sao ba đi lâu quá vậy nữa...
- Hay là ba quên mẹ, quên chị em mình rồi...?
- Không đâu...
- Chớ sao...
Chúng tôi đã về đến xóm. Trời vừa tối. Ngọn núi sau lưng xóm tôi xám sậm hẳn. Vài nhà đã lên đèn, ánh đèn dầu vàng vàng, buồn buồn. Em tôi bỗng hỏi:
- Chị nè, ngọn núi kia có phải núi Trường sơn không chị?
- Thì đó chớ gì.
- Cô giáo em mới kể về núi Trường sơn đó. Núi dài thật là dài, chạy hết thảy miền Trung mình lận...
- ...
- Cô còn chỉ cho tụi em coi bản đồ nữa. Em thấy núi Trường sơn nhìn ra biển...
- ...
- Đứng trên đỉnh núi, không biết mình có thấy biển không chị hỉ?
- Ơ... Không biết nữa...
- Phải chi thấy được biển...
- Chi vậy?
- Thì thế nào trên biển lại chẳng có tàu, biết đâu, mình thấy chiếc tàu biển có ba trên đó...
Tôi bật cười trước ý nghĩ vu vơ của em. Vu vơ như số tuổi lên chín của nó. Số tuổi còn quá ít để hiểu những vấn đề cần suy nghĩ. Cũng như cách nay sáu năm, đứa bé trai lên ba đã không hiểu được gì về những vụ cãi nhau, những vụ náo động trên boong chiếc tàu buôn, nơi ba nó làm việc. Và rồi, không hiểu luôn chuyến phi cơ đưa mẹ con nó rời khỏi vùng trời Sài Gòn, vùng trời đã quyến rũ mất của mẹ con nó người chồng, người cha, để về đây, một góc xứ Tây Sơn heo hút, nghèo nàn.
Tôi nói:
- Thôi, dẹp mấy vụ đó đi. Tới nhà rồi kìa...
Nơi cửa tiệm tạp hóa - thật ra là một cái quán nhỏ thì đúng hơn - chị Hường tôi đang ngồi vá áo. Có tiếng xèo xèo của xoong đồ xào mẹ tôi đang xào dưới bếp.
Chị Hường dừng tay, nhìn ra:
- Tụi bay về trễ quá vậy?
Nghiêm:
- Đâu có trễ, chị hai. Tại trời mau tối đó chớ.
Tôi kể bằng giọng vui vui:
- Thằng Nghiêm đòi leo núi Trường sơn để tìm chiếc tàu biển của ba đó chị.
Chị Hường mỉm cười, nói với Nghiêm:
- Giỏi quá hỉ. Mà mày ước chừng mày leo lên đó được không?
Tôi hiểu câu hỏi đùa của chị, nhưng Nghiêm, nó chưa biết gì cả, nó đáp:
- Để em ráng coi sao chị.
Tôi và chị Hường cùng cười đứa em trai ngô nghê. Rồi thoắt nhiên, cả hai chị em cùng hướng nhìn về phía ngọn núi mờ xa...
q
Buổi sáng hôm ấy, sau khi rời khỏi nơi Nghiêm ngồi gặm khúc bánh mì - gốc ổi sau nhà - để lên nhà trên trông coi cửa tiệm cho mẹ đi chợ, chị đi cất hàng; một lúc sau, tôi trở lại chỗ cũ thì không thấy em tôi đâu cả. Tôi gọi Nghiêm, đi tìm Nghiêm từ trước ra sau, nhưng vẫn không thấy đâu. Muốn mở cửa rào sau ra cánh đồng dưới chân núi xem nó có ngoài đó không - rị mọ với mấy cái hang dế không chừng - nhưng còn cửa hàng, tôi đành trở lên.
Vào giờ những bà nội trợ bận tíu tít nơi chợ búa, những ông công chức, thợ thuyền đều phải có mặt nơi sở làm, và những đứa trẻ chăm chú nơi trường học - tám, chín giờ sáng - cửa tiệm tạp hóa của gia đình tôi thật vắng khách. Nhiều hôm, suốt khoảng thời gian tôi ngồi trông hàng, không một người khách nào ghé qua cả. Rảnh rỗi, tôi hay đem những việc lặt vặt ra làm: đơm cái nút, vá cái áo, thêu cho Nghiêm hàng tên nơi ngực áo đi học, lôi mấy cuốn truyện nhi đồng ra xem. Thường, Nghiêm ê a học bài gần đó, và tôi mải mê với công việc trong tiếng ê a đó, thật thanh bình và hạnh phúc, chờ tới lúc mẹ hay chị về. Sáng nay, không có Nghiêm, tự dưng tôi thấy trống trải quá, không muốn làm gì cả. Tôi chỉ mong sao mẹ, chị mau về để tôi chạy quanh quẩn coi Nghiêm ở đâu và đang làm gì?
Mãi khi nắng lên khá cao, rọi những trái trứng gà từ vài lỗ đinh hàng tôn hiên nhà xuống những bao ni lông me, xí muội, những keo bánh, kẹo, thì chị tôi mới về. Tôi chạy a ra ngoài xe lôi, giúp chị một tay đem hàng vào. Tôi kể:
- Thằng Nghiêm đi đâu từ sáng tới giờ đó chị... Em gọi hoài chẳng thấy nó thưa.
- Chắc nó đến nhà bạn bè chơi chớ còn gì nữa. Cái thằng đến hư...
- Không chắc đâu chị, em nghi nó ra đồng...
- Thì chạy đi tìm nó thử coi sao. Để tao trông nhà.
Như chim sổ lồng, tôi chạy băng ra phía sau nhà. Tôi gọi vang vang:
- Nghiêm ơi! Nghiêm ơi!
Mảnh vườn nho nhỏ im lìm, tiếng cành lá lào xào như bàn tán. Tôi mở cổng vườn sau ra ngoài, cẩn thận gài lại rồi mới dõi mắt khắp cánh đồng tìm bóng Nghiêm. Ruộng đồng miền Trung nghèo như xứ sở, tôi chỉ đảo mắt một vòng là hết khu ruộng. Nghiêm đâu chẳng thấy. Thật lạ!
Tôi trở lại nơi cửa hàng. Chị Hường hỏi:
- Sao? Có thấy nó không?
- Không thấy đâu cả chị ơi. Kỳ ghê!
Mẹ tôi vừa đi chợ về. Chị Hường thuật:
- Mẹ, thằng Nghiêm bỏ đi đâu chơi mất biệt từ sáng tới giờ đó.
Mẹ tôi bỏ giỏ đồ ăn xuống, gỡ cái nón ra quạt phạch phạch:
- Sao không đi kiếm nó coi...
Tôi nói:
- Con ra ngoài đồng kiếm rồi mẹ ơi...
- Chạy qua mấy nhà quen coi có nó không. Bảo nó về gấp, tao mua quà để trong giỏ đây nè...
Tôi dạ rồi chạy đi. Nhưng mấy nhà quen không đâu có Nghiêm. Mẹ tôi đâm lo:
- Nó đi từ sáng tới giờ hả?
- Con không biết rõ từ lúc nào nữa. Lúc mẹ vói chị đi được một chút thì con gọi nó, đã không thấy nó thưa...
Hai mẹ con tôi chia nhau đi tìm Nghiêm, để một lúc sau thì gặp nhau ngoài cánh đồng. Khi ấy, nắng đã cao và sương mù nơi lưng chừng núi đã tan hẳn. Mẹ tôi lơ đãng nhìn về phía đó. Ánh mắt bà bỗng sáng lên. Bà chỉ tay về phía trước, nói với tôi:
- Mày ngó kỹ coi, có phải thằng Nghiêm đó không?
Tôi nhìn theo hướng tay mẹ. Và tôi thấy nơi lưng chừng núi, xen lẫn màu xanh rêu của cây cỏ, một cái áo đỏ nâu thoăn thoắt leo lên. Cái áo đỏ nâu của em tôi!
Tôi chạy dài trên đê, gọi lớn:
- Nghiêm! Nghiêm!
Nhưng dường như em tôi không nghe gì cả. Cái áo đỏ ở quá cao. Nó vẫn lên cao dần.
Mẹ tôi cũng vừa chạy, vừa gọi thật lớn:
- Nghiêm! Leo lên đó làm gì vậy con? Xuống mẹ nói nè...
Nghiêm vẫn không nghe được gì. Mẹ tôi hốt hoảng:
- Không xong rồi, phải đuổi cho kịp nó. Núi không có đường mòn, cứ bám cây mà leo nguy hiểm lắm... Nhan... Con leo được không?
- Dạ được.
- Vậy thì cùng leo với mẹ...
Mẹ con tôi chạy như bay về phía chân núi. Rồi hối hả leo lên.
Ngọn núi với cây cỏ lòa xòa nơi mặt đất thì nhiều, nhưng những cây cao thỉnh thoảng mới gặp, hơi dốc, rất khó leo. Thường ngày, khi nào nổi hứng lắm, chị Hường rủ tôi và Nghiêm leo lên chơi, nhưng chỉ một quãng ngắn là cùng. Leo lên tìm một gốc cây nào đó, ngồi nói chuyện, hay đi quanh quẩn tìm hái sim. Nghiêm còn nhỏ, lần nào leo nó cũng than mệt rồi nhìn lên đỉnh núi tắc lưỡi, hít hà. Thế nhưng sáng nay...
Mẹ tôi leo mau quá, bỏ tôi một quãng khá xa. Nghiêm ở tít trên cao. Tôi lưng chừng dưới. Mẹ tôi bắc tay làm loa gọi:
- Nghiêm! Nghiêm ơi!
Em tôi vẫn chưa nghe. Tôi lên gần tới. Mẹ tôi nói:
- Hay là con xuống đi, một mình mẹ leo tìm nó đủ rồi.
- Con không xuống đâu. Mẹ cứ để con từ từ leo lên.
Mẹ tôi nhìn tôi ái ngại. Cuối cùng, mẹ cũng đành quyết định:
- Cẩn thận nghe con...
Rồi mẹ bám cây, leo lên. Tiếng gọi của mẹ lồng lộng trong gió mai. Một khoảng lưng mẹ ướt đẫm mồ hôi. Em Nghiêm tôi vẫn vô tình lên thật cao. Mẹ tôi cũng xa tôi dần. Tôi đưa mắt nhìn xuống phía dưới, và tôi bỗng thấy chóng mặt. Có lẽ Nghiêm nhớ lời chị Hường dặn: khi leo lên đừng nhìn xuống. Nó không hề quay lại.
Càng lên cao càng thấy lạnh dù nắng đang dần đỏ rực. Tiếng mẹ tôi vẫn vang vang:
- Nghiêm! Nghe mẹ gọi không? Nghiêm ơi!
Em tôi bỗng dừng lại. Có lẽ nó đã nghe tiếng mẹ gọi. Mẹ tôi leo mau hơn. Nghiêm dừng hẳn, quay đầu lại. Mẹ tôi nói:
- Xuống đi con! Leo lên đó làm gì vậy?
Với cái áo đỏ nâu sậm màu hơn, màu đỏ nâu với mồ hôi ướt đẫm, em tôi nhìn mẹ rồi ngước nhìn lên đỉnh núi, nơi không còn bao xa nữa. Rồi nó lại leo. Mẹ tôi tiến lên mau hơn. Tôi đứng tựa vào một gốc cây - vì không đủ sức leo thêm nữa - nhìn hai người trên cao. Cái áo trắng của mẹ tôi và cái áo đỏ nâu của em tôi lúc một gần nhau hơn. Rồi cuối cùng, Nghiêm bị giữ lại. Tôi không còn nghe được những gì mẹ tôi nói với Nghiêm nữa - xa quá - nhưng tôi thấy rõ, Nghiêm vùng vằng trong tay mẹ và nó khóc. Tôi bỗng nhìn xuống phía dưới. Những nếp nhà nhỏ xíu nằm im lặng dưới chân núi làm tôi giật mình. Chúng tôi đang ở một cao độ đáng kể.
Lúc mẹ tôi đưa Nghiêm xuống đến nơi tôi đứng đợi, em tôi vẫn còn khóc. Mẹ toi chỉ vào tôi:
- Mày coi đó, chị mày nó leo đến mệt phờ ra kìa. Sao hư vậy con?
Nghiêm ngước nhìn lên đỉnh núi tiếc rẻ. Mẹ tôi nhẹ giọng:
- Thôi, đứng đây nghỉ một chút rồi xuống. Tao cũng mệt quá rồi...
Nghiêm đứng im, thút thít, thỉnh thoảng lại nấc lên. Mẹ tôi bảo tôi:
- Mày hỏi nó thử coi, Nhan! Tao hỏi, nó nhất định không chịu nói leo lên núi để làm gì?
Không cần hỏi, tôi cũng đã biết, và biết rất rõ. Tôi nhớ đến cái mà tôi gọi là ý nghĩ vu vơ của em tôi hôm nào. Những lời ngây thơ của nó văng vẳng bên tai tôi: “Đứng trên dỉnh núi, mình có thấy biển không chị hỉ? ... Thế nào trên biển chẳng có tàu... Biết đâu mình thấy chiếc tàu có ba...”
Tôi nói với mẹ:
- Nó leo lên núi để ngó biển đó mẹ.
Mẹ tôi ngạc nhiên:
- Chi vậy? Con khùng rồi hả Nghiêm?
- Nó muốn thấy chiếc tàu biển có ba trên đó...
Bờ môi mẹ tôi run run. Bà nhìn em tôi không rời. Rồi hai mắt bà long lanh. Bà hỏi:
- Phải vậy không Nghiêm?
Em tôi không đáp mà nó bỗng khóc lớn, bật thành tiếng. Mẹ tôi chạy lại, ôm gọn nó trong vòng tay. Bà nói: “Tội nghiệp con tôi!”, rồi khóc theo.
Tôi ngước nhìn lên đỉnh núi. Tôi nghe tự lòng mình, đâu đó, câu nói dành riêng cho Nghiêm: “Em yêu của chị! Thái Sơn cao vời lắm!”.
NGUYỄN THÁI HẢI
(Bán nguyệt san Tuổi Hoa số 180, ra ngày 1-7-1972)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét